Showing posts with label tzvetan-todorov. Show all posts
Showing posts with label tzvetan-todorov. Show all posts

Apr 17, 2024

Bí mật của truyện

Bắt đầu một bài mới về Henry James, thì bài cũ cũng đã hoàn thành luôn.

Lần này, người bình luận James là Tzvetan Todorov (Todorov: tìm theo label sẽ có nhiều, nhưng lại có hai label, "todorov" và "tzvetan-todorov"). Nếu bài trước là một essay của một người cùng thời với James, thì essay của Todorov được viết hơn nửa thế kỷ sau khi James chết - và đó là cái nhìn của một lý thuyết gia văn học (Todorov chính là một trong những người làm văn chương James trở nên đáng chú ý trở lại, trong giới nghiên cứu).

Bài của Todorov, "Bí mật của truyện: Henry James" có thể tìm được trong một cuốn sách, Poétique de la Prose.

Oct 7, 2020

Tzvetan Todorov

Khi Todorov qua đời, cách đây hơn ba năm, tôi đã muốn làm một việc: đọc lại Todorov và đọc những cuốn sách Todorov trước đây tôi còn chưa đọc. Một thời, đó là một nhân vật có ý nghĩa không nhỏ đối với tôi, tuy cũng gây cho tôi không ít rắc rối (và phản đối). Rồi một người từng rất thân cận với Todorov, Gérard Genette, cũng qua đời không lâu sau đó; rốt cuộc tôi vẫn chưa bắt đầu làm việc đã định làm. Genette-Todorov: một cặp (ít nhất trong một giai đoạn).

Về một cặp khác không phải là không có nhiều liên quan: xem ởkia.

Đọc hết (ít nhất, một cách tương đối) một người như Todorov không hề đơn giản: đó không chỉ là một người viết rất nhiều, mà lại còn là người có không ít thay đổi. Thêm một điều nữa, ở riêng trường hợp Todorov: nói một cách ngắn gọn, không biết mọi thứ đã diễn ra như thế nào, mà giờ đây thật không dễ nhìn nhận humanisme.

Jul 30, 2013

Về vụ Nhã Thuyên và rộng hơn vụ Nhã Thuyên một chút

nội dung cơ bản của những điều dưới đây tôi đã nói trực tiếp tại Hội nghị Lý luận-Phê bình tại Tam Đảo cách đây vài tháng, ở cuối phiên thứ hai, ngày họp thứ nhất; bài này vừa đăng (đầy đủ) trên tờ Sài Gòn tiếp thị dưới nhan đề "Nghiên cứu-phê bình văn học hiện nay: vấn đề lý thuyết và vấn đề đối tượng"



Hội nghị Lý luận Phê bình Văn học lần thứ III tổ chức tại Tam Đảo tháng Sáu vừa rồi là một dịp để giới lý luận phê bình Việt Nam hội tụ. Đọc và nghe các tham luận được trình bày, tôi thấy có hai điều chính yếu nằm ở trọng tâm của nghiên cứu và phê bình văn học hiện nay nổi lên rõ rệt.

Jun 9, 2013

Ghi chép vụn vặt về Tên của đóa hồng


Động chạm đến các “magnum opus” trong nền văn hóa phương Tây không phải chuyện đơn giản, vì để trở thành một “great work” ở đó, tác phẩm phải chứa đựng trong nó cả một lịch sử cộng với một cách diễn giải độc đáo mà để nhìn nhận được cần rất rất nhiều thứ. Tên của đóa hồng không hề dễ dàng, chẳng phải vì nó có cốt truyện lắt léo, bày ra một mê cung (mê cung là món rất được một số nhà văn cự phách của thế giới phương Tây ưa thích, tiêu biểu hơn cả là Borges).

Trước hết: tại sao lại có cái đề tài gắn chặt với Chúa và tôn giáo này?

Dec 28, 2011

[VCLN] Nhìn lại lý thuyết


Lý thuyết văn học không phải là một chuyện đương nhiên. Ở rất nhiều thời kỳ, tác phẩm văn chương có thể tồn tại mà không cần đến lý thuyết (hiểu theo nghĩa một hệ thống nghiêm ngặt): tác giả không cần đến lý thuyết để viết, độc giả cũng không cần đến lý thuyết để đọc, đến phê bình gia hay bình luận gia cũng không nhất thiết cần đến lý thuyết trong công việc của mình. Nhưng trong vài thập niên giữa thế kỷ XX, lý thuyết văn học đã thực sự tồn tại, phát triển mạnh mẽ, vừa mang dáng dấp của một chủ nghĩa tiền phong vừa có nhiều khía cạnh của một định chế, không những thế lại còn đồng hành cùng nhiều huyền thoại: ngôn ngữ học, chủ nghĩa hình thức Nga, cấu trúc luận, Tiểu thuyết Mới, phong trào tháng Năm 1968 v.v… đến mức bản thân lý thuyết cũng như thể đã trở thành một huyền thoại: ở khối Anh-Mỹ người ta nhắc tới cụm từ French Theory[1] (Lý thuyết Pháp), và rồi, khi lý thuyết đã qua ngả quành nước Mỹ để quay trở lại Pháp, nhiều lúc người Pháp dùng cái tên Théorie américaine (Lý thuyết Mỹ) để trỏ hiện tượng này.

Trong những năm 1960, rất nhiều tác phẩm lý thuyết đã đồng loạt ra đời, với những cái tên nổi bật: Roland Barthes, Gérard Genette, Tzvetan Todorov, Julia Kristeva… Cũng trong những năm này, cuộc tranh luận gay gắt giữa Roland Barthes và giáo sư Raymond Picard của Đại học Sorbonne xung quanh Racine đã báo hiệu cho một thay đổi rất lớn trong nghiên cứu văn học Pháp. Các lý thuyết gia phản đối đường lối cũ của nghiên cứu (mà đại diện là giới giáo sư đại học) đặt trọng tâm vào lịch sử, tiểu sử, giai thoại và muốn bước sang một con đường mới với phương pháp lấy cảm hứng từ ngôn ngữ học (Ferdinand de Saussure, Roman Jakobson) và cấu trúc luận (Claude Lévi-Strauss), coi văn học như một hệ thống văn bản tự trị với những đặc điểm, quy luật riêng. Năm 1966, số 8 của tờ tạp chí Communications quy tụ đầy đủ những nhân vật của “trường phái mới” này[2]. Số tạp chí này nổi tiếng đến mức sau đó còn được tái bản nguyên trạng, như một chứng tích cho thành công của nghiên cứu văn học theo hướng lý thuyết một thời. Trong những năm 1960, vai trò phát ngôn quan trọng nằm ở tạp chí Tel Quel (hạt nhân là Philippe Sollers) và tủ sách cùng tên. Bắt đầu từ năm 1970, tờ tạp chí Poétique (Thi pháp) và tủ sách cùng tên (dưới sự chủ trì của Genette và Todorov) trở thành cơ quan ngôn luận chính. Từ 1970 đến 1980, tủ sách “Poétique” ấn hành được khoảng 30 tác phẩm (ngày nay cả tờ tạp chí lẫn tủ sách đều vẫn tồn tại; tính đến năm 2000, số lượng tác phẩm của tủ sách “Poétique” là khoảng 80 cuốn).

Dec 20, 2011

Trả lời phỏng vấn

Được biết công việc chính của anh là nghiên cứu văn học nước ngoài và văn học sử Việt Nam nhưng bạn đọc biết đến anh nhiều hơn với tư cách là một dịch giả. Vậy dịch thuật có ý nghĩa thế nào đối với công việc của anh? Anh làm công việc dịch thuật vì điều đó mang lại cảm hứng nhiều hơn hay vì những giá trị của nó đối với công việc nghiên cứu?

Tôi dịch sách vì thấy cần thiết và vì niềm vui mà công việc này mang lại cho tôi. Tôi ở rất sát ngành xuất bản sách Việt Nam, cũng khảo cứu nhiều về lịch sử xuất bản Việt Nam, tôi biết sách ở Việt Nam tuy nhiều nhưng vẫn thiếu, cần rất nhiều đóng góp. Còn có thể liệt kê ra thêm nhiều lý do, nhưng cốt yếu nhất là việc dịch sách giúp tôi thường trực cận kề với chữ nghĩa, đến mức độ vi mô nhất. Với tôi, năng lực xử lý và phản ứng với chữ nghĩa là điều quan trọng nhất của một người làm về nghiên cứu và phê bình văn học.

Chắc anh cũng quan tâm đến văn học trong nước? Và một thực tế là văn học nước ngoài đang chiếm ưu thế trong thị trường sách văn học ở Việt Nam. Đối với người đọc, và đối với người viết, theo anh điều đó có ảnh hưởng thế nào?

Trong văn học chắc không tồn tại khả năng giống như trong sản xuất-tiêu dùng, là kêu gọi người Việt Nam dùng hàng Việt Nam. Mặc dù vẻ ngoài có là như thế nào, theo tôi văn học nước ngoài ở Việt Nam vẫn còn được tiếp cận theo lối rất phiến diện, chưa làm được gì nhiều với các tác giả quan trọng của thế giới, nhất là những tác giả đặc biệt lớn, những nhà văn đặc biệt giỏi, ở các dòng văn chương thiên về kỹ thuật hơn là nội dung và tư tưởng.

Liệu sẽ có lúc, những tác phẩm văn học xuất sắc với hàng loạt tác giả danh tiếng thế giới sẽ “nuốt chửng” văn học trong nước?

Ngành dịch thuật và xuất bản Việt Nam mới chạm tới lớp vỉa bên ngoài của văn học thế giới. Điều hợp lý nhất mà các nhà văn Việt Nam nên làm là nỗ lực hiểu văn học thế giới. Theo tôi đặc trưng của văn chương là tính hai mặt của nó: văn chương vừa động tới những gì nhỏ nhặt và gần gũi nhất vừa vươn tới những gì phổ quát nhất của loài người, và đến một mức độ nào đó người ta cũng chẳng còn hứng thú hay nhu cầu nhớ quốc tịch nhà văn nữa đâu.

Tôi đã đọc một số bài nghiên cứu, tiểu luận của anh về văn học và dịch thuật, anh có những ý kiến có thể coi là “cực đoan”, ví dụ anh đề cao vai trò của ngôn ngữ hơn vai trò của triết học trong tác phẩm, anh nghĩ sao nếu cần một cuộc tranh luận “sòng phẳng”?

Cũng không hẳn là như vậy, điều tôi muốn nói là văn chương cứ cố đi vào đề tài lớn, luận đề vĩ đại thường xuyên là văn chương thất bại. Thêm một điều nữa, với tôi văn chương đương nhiên là nơi dung chứa cho những điều cực đoan, thậm chí cả điên rồ, nếu không thì văn chương cũng không nên tồn tại làm gì.

Còn nhớ, cách đây chưa lâu, khi bàn về dịch văn học, có ý kiến cho rằng: Để có thể dịch tốt nhất một ngôn ngữ nào đó, tác phẩm của một tác giả nào đó, thì ngoài vốn ngoại ngữ, người dịch còn (hay buộc) phải có sự am tường về văn hóa quốc gia đó. Thậm chí, có người còn cho rằng: Dịch giả nên có thời gian sống tại đó. Điều này, đối với các dịch giả trẻ như anh hôm nay, có cực đoan quá không?

Lẽ dĩ nhiên ai cũng hiểu rằng trải nghiệm thực tế thuộc vào những gì không thể thay thế được. Tuy nhiên tôi nghĩ cũng cần thận trọng ở khía cạnh này: nhiều dịch giả giỏi ở Việt Nam không nhất thiết từng có thời gian sống ở nước ngoài. Có lẽ trong dịch thuật ngoài trải nghiệm thực tế còn tồn tại nhiều điều khác nữa, trong đó có năng lực đặc thù đối với việc thấu hiểu cái xa lạ, cái bên ngoài. Nhưng dẫu vậy, dịch giả thiếu cọ xát với đời sống thực thường không giỏi trong dịch đối thoại và những miêu tả cuộc sống thường nhật.

Đưa văn học thế giới vào Việt Nam hiện đang rất thuận lợi, dễ dàng, với một “đầu ra” khá tốt. Nhưng đưa văn học Việt Nam ra với thế giới thì ngược lại. Anh có sáng kiến hay gợi ý gì chăng?

Điều này thú thực hoàn toàn không nằm trong sự quan tâm của tôi. Tôi chỉ có thể nói là văn học thế giới đi vào Việt Nam cũng không hề thuận lợi, dễ dàng, nếu hiểu rõ về độc giả, cơ chế điểm sách của báo chí. Như đã nói ở trên, theo tôi sự hiện diện của văn học thế giới ở Việt Nam vẫn còn ở mức độ rất phiến diện.

Có những nhà văn gốc Việt đã khá thành công ở nước ngoài, ví dụ như Linda Lê, Thuận, những người đã trực tiếp xuất bản sách ở bên ngoài Việt Nam, liệu đó có phải một “kiểu” để đưa văn học Việt Nam ra thế giới?

Đó không phải là chuyện “đưa văn học Việt Nam ra thế giới”, mà là chuyện tác phẩm có giá trị thì ở bất kỳ đâu cũng có chỗ đứng cả.

Anh được coi là một trong những dịch giả thích dịch những tác phẩm thuộc loại “khó nhằn”, ví dụ như một số cuốn của Milan Kundera, V.S. Naipaul chẳng hạn. Vì sao vậy? Phải chăng sự vất vả trong lúc dịch mang lại hứng thú cho anh nhiều hơn?

Mỗi người có những quan tâm và thế mạnh riêng. Tôi cũng đã thử mở rộng công việc dịch sách ra các mảng văn học trinh thám, sách cho thiếu nhi… và gặp được nhiều hứng thú. Những cuốn sách dịch đầu tiên được xuất bản của tôi cũng là sách thiếu nhi, tôi dịch cho nhà xuất bản Kim Đồng trong khi còn đi học.

Mặc dù là “trí thức tây học”, anh có vẻ rất “đắm đuối” với văn hóa Hà Nội, một điều ít thấy ở những người trẻ, có thể một lúc nào đó nhiều người trẻ sẽ quên lãng nền văn hóa có lịch sử lâu đời của dân tộc mình. Anh nghĩ sao về điều này?

Nếu có cảm tình với nơi mình sống thì mọi chuyện sẽ dễ dàng hơn, tôi nghĩ vậy.

Tôi biết anh đang dịch một series bài về “Văn chương lâm nguy”, văn chương thế nào mà lại “lâm nguy” thế? Dự định sắp tới của anh về những cuốn sách sẽ dịch?

Đây là một câu chuyện (khá dài) của giới nghiên cứu văn học ở Việt Nam. Có một cuốn sách mang tên Văn chương lâm nguy của Tzvetan Todorov được dịch ra tiếng Việt gần đây, trong đó tác giả phê phán cách sử dụng lý thuyết văn học tràn lan, quá đà, nhất là trong trường học. Tuy nhiên, lý thuyết văn học, theo tôi, vẫn có chỗ đứng hợp lý và đầy ý nghĩa trong công việc nghiên cứu. Loạt bài liên quan đến chủ đề này cho thấy các nhà nghiên cứu văn học ở phương Tây nghĩ gì về lý thuyết văn học; đa phần họ đều thấy rằng lý thuyết tuy thoái trào trong thời gian gần đây nhưng thực sự đã đóng vai trò quan trọng trong việc hiểu sâu sắc văn chương; điều này khác hẳn với một số nhà nghiên cứu Việt Nam coi cuốn sách Văn chương lâm nguy là dấu hiệu cho sự sai lầm và cáo chung của lý thuyết văn học.

-----------

Bonus: để mấy cái link nghiên cứu dần :p

Bài chê Eco (bad book etc)

Bài của Trần Thanh Đạm (hơi bị hay) 

PA25 phàn nàn về cách thức tham gia thảo luận trên web

Dec 14, 2011

[VCLN] Kristeva + sửa chữa +


Đây là bài thứ mười và cũng là bài cuối cùng tôi dịch từ loạt bài Vincent Kaufmann phỏng vấn các lý thuyết gia. Phía dưới bài này tôi để đường link bản sửa bài Kaufmann phỏng vấn Philippe Sollers.

Tôi có nhìn thấy Vi Văn Tuyên có bài chỉ trích bản dịch bài Sollers này, nhưng ở đây tôi không làm giống như với các bản sửa bài Genette, Culler và Stierle: tôi không bình luận các nhận xét của Vi Văn Tuyên. Trên thực tế tôi đã không đọc bài chỉ trích bản dịch Sollers này.

Tại sao lại như vậy? Là vì, bỏ ra bên ngoài tất cả những lời lẽ không hay ho Vi Văn Tuyên dành cho tôi, tôi từng nghĩ là mình sẽ học hỏi được bằng việc xem xét các ý kiến của Vi Văn Tuyên, nhưng sau mấy lần đọc kỹ lưỡng thì tôi thấy là không phải như vậy. Trên thực tế, ý kiến của Vi Văn Tuyên có nhiều chỗ sai, trong khi tổng khối lượng công việc mà Vi Văn Tuyên phải xử lý nhỏ hơn tổng số lượng công việc mà tôi phải xử lý rất nhiều.

Dẫu vậy, tôi vẫn thật lòng cảm ơn Vi Văn Tuyên. Khi xem xét, chỉnh sửa các bản dịch, công việc sẽ thuận lợi hơn rất nhiều nếu có sẵn ý kiến của người khác để đối chiếu. Ở một số chỗ, ý kiến của Vi Văn Tuyên thực sự đã giúp tôi suy nghĩ và tìm ra chỗ sai, chỗ nhầm, chỗ vội vã của mình. Lẽ ra việc trao đổi giữa chúng ta đã có thể (ở đây tôi dùng "conditionnel" của tiếng Việt) có nhiều lợi ích hơn.

Điều mà tôi phàn nàn trong vụ việc này là trang Tiền Vệ. Như tôi đã chỉ ra, ý kiến của Vi Văn Tuyên có nhiều chỗ sai, không hợp lý, không những thế lời lẽ các bài viết của Vi Văn Tuyên không thể nói là tốt đẹp về phía tôi, và hơn nữa, rất có thể "Vi Văn Tuyên" không phải là một cái tên thật.

Trang Tiền Vệ đã không biết Vi Văn Tuyên sai? Trong khi những bài ấy có thể ảnh hưởng đến uy tín cá nhân của người khác và có thể dẫn tới những bình luận khác nữa xuất phát từ đó. Độc giả bình thường rất khó biết được Vi Văn Tuyên cũng sai nhiều.

Lẽ ra, theo tôi, nếu không đủ trình độ để thẩm định mức độ đúng sai của bài viết, ban biên tập Tiền Vệ cần nhờ chuyên gia xem lại. Tôi nói điều này không hề với ý khiêu khích, mà bản thân tôi đã mấy lần được vài nơi nhờ làm công việc đọc trước những chỉ trích thuộc dạng này, chứng tỏ đây là một việc được một số nơi thực hiện.

Không những thế, ban biên tập Tiền Vệ còn đăng lên các bài viết của Vi Văn Tuyên với rất nhiều lỗi trình bày. Điều này làm tôi có cảm giác ban biên tập Tiền Vệ cốt sao có bài gửi tới là đăng, không biên tập, mau mau chóng chóng để bài lên mạng.

Tất cả những điều đó theo tôi là có các dấu hiệu của một thái độ phản trí thức. Tôi thành thực mong ban biên tập Tiền Vệ (cụ thể là ông Hoàng Ngọc Tuấn và ông Nguyễn Hưng Quốc) có cách hành xử hợp lý.

Tôi xin được nói cho rõ là trong suốt quãng thời gian xảy ra vụ việc này, giữa bên Tiền Vệ (cụ thể là ông Hoàng Ngọc Tuấn và ông Nguyễn Hưng Quốc) và tôi không hề có liên lạc, mặc dù trước đây từng có.

PS. Trong mấy ngày vừa qua, tôi cho hiện mọi comment, nhưng bắt đầu từ bây giờ, tôi sẽ không cho hiện bất kỳ comment nào mà tôi cho là có tính chất mạ lỵ, hạ thấp, thậm chí là mỉa mai, châm chọc các bên hữu quan, tức Vi Văn Tuyên, Tiền Vệ và tôi.

---------------------

Julia Kristeva. Sinh năm 1941, nhà tâm phân học, giáo sư tại Đại học Paris VII và Đại học Bang New York (SUNY), giám đốc Trung tâm Roland Barthes, tác giả của nhiều khảo luận, tiểu thuyết, các tác phẩm quan trọng nhất: Semeiotike. Recherches pour une sémanalyse, 1969, La Révolution du langage poétique, 1974, Polylogue, 1977, Soleil noir. Dépression et mélancolie, 1987, Sens et non-sens de la révolte, 1996, La Révolte intime, 1997.


SemeiotikeLa Révolution du langage poétique [Cuộc cách mạng của ngôn ngữ thơ ca] thuộc vào số những công trình kinh điển của lý thuyết văn học và đặc biệt hơn là nằm trong số những tác phẩm quan trọng nhất của thời kỳ “chính trị hóa” của lý thuyết văn học. Ngày nay bà còn bảo vệ những điều quan trọng và hình thức của chúng hay không? Những cuốn sách ấy có còn vang vọng trong các công trình hiện nay của bà không?

Vâng, những cuốn sách ấy vừa có một lịch sử vừa có một tính chất thời sự. Chúng đưa ta về những năm từ 1966 đến 1975, về cái quãng chục năm mà với độ lùi thời gian tôi thấy là vô cùng quan trọng, vừa quan trọng đối với lịch sử chính trị châu Âu vừa quan trọng đối với lịch sử tư tưởng. Chúng cũng thuộc về lịch sử cá nhân tôi, cái lịch sử cá nhân đã giao cắt với lịch sử châu Âu ấy. Tôi thấy lại mình vào Giáng sinh năm 1965, được hưởng học bổng của chính phủ Pháp, một sinh viên nữ người Bungari đang chuẩn bị luận án về Tiểu thuyết Mới. Tôi được đón tiếp bởi một đất nước mà tôi đã lý tưởng hóa rất nhiều trong khi học tiếng Pháp, nhưng tôi lại thấy nó rất cứng nhắc, vừa ra khỏi cuộc chiến tranh Algérie và không thấy tương lai một cách rõ ràng lắm.

Cùng lúc, có tờ tạp chí Tel Quel và xêmina của Roland Barthes ở EHESS [École des hautes études en sciences sociales - Trường cao học khoa học nhân văn]. Ở những chỗ đó văn chương được sống qua như một trải nghiệm tư duy, điều này vừa cắt đứt với hình ảnh mang tính chất thực lợi của văn chương mà tôi đấu tranh chống lại ở bên Bungari với tư cách sinh viên và nhà nghiên cứu trẻ tuổi, vừa cắt đứt với thứ văn chương xả hơi, cái thứ “mỹ văn” ấy. Người ta tra vấn các văn bản của [Stéphane] Mallarmé, của [Georges] Bataille, của [Antonin] Artaud, còn chưa động tới các văn bản của [Marcel] Proust nhưng với tôi ông đã là một phần của “bí ẩn trong văn chương”. Vẫn còn chưa đọc cả [Martin] Heidegger lẫn [Sigmund] Freud, với hiểu biết về chủ nghĩa hình thức Nga, tôi đã theo sát ký hiệu học được Roland Barthes hay [Algirdas Julien] Greimas phát triển vào lúc đó. Xuất phát từ các nền tảng ấy, công việc của tôi đã mở lối đi cho cái mà sau này người ta gọi là “hậu cấu trúc luận”. Bằng cách tiếp cận văn chương như một trải nghiệm tư duy, tôi đã thử kết hợp nghiên cứu ngôn từ với động năng của chủ thể tính [dynamique de la subjectivité]. Cấu trúc luận chỉ tra vấn hay đúng hơn là chỉ tính toán hệ thống nghĩa, hệ thống lôgic mà các nhà hình thức chủ nghĩa Nga đã bày ra, mà [Claude] Lévi-Strauss sau đó đã áp dụng vào cho huyền thoại và quan hệ thân tộc, mà Greimas sẽ khuôn định xuất phát từ [Louis] Hjelmslev. Mối quan tâm về việc mở ra vấn đề chủ thể nói đã dẫn tôi đến với Freud. Song song với đó, vị trí của trải nghiệm này trong không gian xã hội và lịch sử chỉ có thể được nắm bắt bằng cách xem xét cuộc gặp giữa một văn bản và những văn bản khác, từ đó mà nảy sinh mối quan tâm của tôi dành cho [Mikhaïl] Bakhtine. Tôi quan tâm tới công trình của ông xung quanh Rabelais và Dostoievski, tới các khái niệm “nguyên lý đối thoại” và “carnaval” của ông, mà tôi đã thử đào sâu bằng cách làm hé lộ trong “carnaval” tác phẩm của ham muốn và của xung năng chết, đặc biệt là thông qua các dấu vết của chúng trong những nhịp điệu, những lặp lại [écholalie], hệ thống cử chỉ [gestualité], những từ được tạo ra, vô ngôn, liên ngôn ngữ, v.v… Tôi đã thử đưa thêm vào kích thước xã hội và lịch sử của trải nghiệm văn chương, thông qua cuộc đối thoại giữa các văn bản và những văn bản khác, từ đó mà có khái niệm “nguyên lý đối thoại”, mà tôi đã diễn giải theo cách ấy và đã mở rộng tới hiện tượng đa thanh ở [James] Joyce.

Tôi đã phát triển phương pháp luận này trong Semeiotike (1969) và, theo cách thức chuyên sâu hơn, liên quan đến các văn bản của Mallarmé và Lautréamont, trong La Révolution du langage poétique (1974). Cuộc “cách mạng” ở đây là cách mạng về các mã giao tiếp, sự đổi mới của các ngôn ngữ. Sau này tôi đã quay trở lại với những điều tiềm ẩn về mặt từ nguyên của từ “nổi loạn” [révolte] trong xêmina của tôi về “nghĩa và vô nghĩa của nổi loạn” và “cuộc cách mạng nội tâm”, bằng cách chỉ ra sự cần thiết về mặt tâm thần của sự quay trở lại ấy của nghĩa tới xung năng và cảm tính, và ngược lại: về sự nổi-loạn [ré-volte], hé-lộ [dé-voilement] hay lộ-diện [ré-vélation] này với tư cách các điều kiện của đời sống tinh thần và, hơn thế nữa, của tính sáng tạo cá nhân và sự đổi mới về mặt xã hội.

Có một sự tiếp nối nào giữa cấu trúc luận và các vấn đề mà bà là người đưa vào hay không? Bà tự định vị mình như thế nào trong một trào lưu lý thuyết rộng hơn?

Tôi cho cái mà tôi đã đưa vào, cái mà người ta thường gọi là “hậu cấu trúc luận”, là không thể hiểu, không thể nghĩ tới nếu không có cấu trúc luận. Tôi thấy là nhất thiết phải nắm bắt lấy văn bản trong kích thước kỹ thuật của nó, ta cứ gọi là kích thước thủ công, theo cái nghĩa cao quý nhất và giản dị nhất của nó. Tính hình thức cụ thể của văn bản, được cấu trúc luận đặt cột mốc, là một nền tảng cần thiết cho việc hiểu sâu sắc nó. Nói vậy, thứ chủ nghĩa hình thức này đã có thể bị chai cứng lại, trở thành một sự thực hành kỹ thuật bỏ qua mất những điều quan trọng về mặt diễn giải chủ quan và lịch sử. Nghĩa không chỉ là một hình thức, tôi hiểu nó như một công dụng biểu nghĩa [signifiance] trong đó bộc lộ sự thức tỉnh [éveil], các thảm họa và những tái sinh của một chủ thể nói trong một cộng đồng. Chính đó là những địa hạt mà tôi đã thử mở ra với các khái niệm như “liên văn bản” [intertexte] và “nguyên lý đối thoại”.

Về cái mà ông gọi là “trào lưu lý thuyết rộng hơn”, đó là gì? Có phải là các ý hệ gia ít nhiều “politically correct” [đúng đắn về mặt chính trị], những người cưỡng đoạt lấy những gì được cho là một sự đột phá, tra vấn, nổi loạn không? Tôi không thấy có mình ở trong đó và, tôi sẽ thú nhận với ông, tôi không đọc họ. Người ta nói với tôi về vài cuộc tranh luận “nữ quyền luận” bàn tới các suy tư về ngôn ngữ thơ ca của tôi: “cái ký hiệu” [sémiotique] liệu có thể là giống cái hoặc có tính chất người mẹ hay không? “Cái biểu tượng” [symbolique] liệu có thể mang tính chất gia trưởng hay không? Ta bỏ qua những cái đó đi. Xét cho đến cùng, French Theory [Lý thuyết Pháp] có cái ưu điểm là làm cho sinh viên và nhà nghiên cứu Mỹ, và cùng với họ là sinh viên và nhà nghiên cứu của thế giới toàn cầu hóa, dành thời gian cho suy tư, nhằm khám phá ra rằng “triết học lục địa” như họ nói (Platon, Augustin, Kant, Hegel và Heidegger) không thể tách rời khỏi cái trải nghiệm ngôn ngữ ấy, mà người ta gọi là “văn chương”. Điều với tôi là quan trọng nằm ở chỗ, trong thế giới hiện đại của kỹ thuật và tốc độ, người ta dành thời gian cho suy tư, người ta đọc cái French Theory ấy cùng những cái đi trước nó, các nguồn của nó, các ảnh hưởng lên nó, các đoạn tuyệt của nó. Và nhất là không để mất dấu những tài liệu [corpus] văn chương từ đó nó đã phát xuất. Tôi mang những món nợ với Hegel, Saussure hay Freud ngang bằng với Mallarmé, Proust và Céline. Rồi sẽ phải quay trở lại với những gì vẫn là bí ẩn trong các ngôn ngữ và văn bản, và tìm cách suy tư về bí ẩn đó bằng cách đề xuất những tái san định đối với di sản siêu hình học đã cấu thành triết học và các khoa học nhân văn, và cả với những cột trụ văn hóa khác nữa. Đây là thông điệp của thứ “lý thuyết” mà chúng tôi đã thử xây đắp: văn chương là một suy tư và nó kích thích các suy tư, nhưng thật phi lý khi gắn chết nó vào trong các “lý thuyết” đã trở thành các công cụ [gadget] để ứng dụng. Không có “lý thuyết”, mà chỉ có các sáng tạo lý thuyết.

Trải nghiệm chuyên gia tâm phân học của bà có làm biến đổi mối liên hệ của bà với văn chương không? Với bà còn lại gì từ chương trình chính trị hoặc ý hệ ngầm ẩn trong các công trình đầu tiên của bà?

Trải nghiệm chuyên gia tâm phân học của tôi đã dẫn tôi đến chỗ nhấn mạnh vào động năng chủ quan [dynamique subjective] trong sáng tạo hơn so với kỹ thuật văn bản. Nhưng tôi nghĩ rằng kích thước hình thức này vẫn là một địa hạt cần khám phá, với điều kiện thêm một lần nữa sự phân tích tỉ mỉ các văn bản văn chương trở thành một cái cớ để tìm ra từ đó những điều kiện và tiếng vang của chủ thể và của xã hội. Cá nhân mà nói, tôi từng quan tâm đến các cấu trúc [économie] chủ quan nằm bên dưới sự sáng tạo. Chẳng hạn, trạng thái yêu đương hay cái mà tôi gọi là “thuần phục” [abjection] (cái vùng bất xác quyết giữa người mẹ và đứa con nơi “tôi” còn chưa tồn tại: không phải chủ thể, cũng không phải khách thể, mà là “cái thuần phục” [abject/abjet], cực của sự quyến rũ và sự ghê tởm). Tôi suy được ý tưởng này từ việc đọc Céline. Sau đó tôi đã xây dựng nó [ý tưởng này] xuất phát từ lâm sàng tâm phân học, và tôi đã đề cập tác phẩm Céline (các tiểu thuyết và các tác phẩm đả kích [pamphlet]) xuất phát từ “thuần phục”. Cách tiếp cận tâm phân học này, không phải một sự áp dụng, đồng nghĩa với làm một văn bản vang lên với một trải nghiệm tâm phân học, điều này cho phép khám phá ở một tác giả một cấu trúc tâm thần đặc thù, soi sáng cho những đóng góp và những hạn chế của tác giả ấy.

Việc chăm chú lắng nghe các ngôn từ mở vào “độ sâu mênh mông của các từ” (như Balthazar Gracian từng nói), xuất phát từ sự khám phá vô thứcchuyển dịch, theo tôi soi rọi những vấn đề trọng yếu của tính hiện đại. Chẳng hạn, những người, đàn ông hay phụ nữ, xuất thân từ một nền văn hóa chữ viết, liệu họ có thể sống, và sống như thế nào, trong một nền văn minh hình ảnh? Tôi đề cập điều này xuất phát từ việc phân tích một bệnh nhân sống trong thế giới sân khấu và quy giản diễn ngôn của anh ta về các bức ảnh kỹ thuật (Les Nouvelles Maladies de l’âme [Các chứng bệnh mới của tâm hồn], 1993). Hoặc nữa: vai trò của các tôn giáo. Tại sao lại có khải ngộ này và nhu cầu với tâm linh này? Các cuốn sách gần đây nhất của tôi hướng tới nhu cầu tin tưởng, mà tôi coi như là một nhu cầu tiền tôn giáo, phổ quát trong cấu trúc tâm thần của homo sapiens. Nếu nhu cầu này là phổ quát, thì các tôn giáo được tạo thành theo lối lịch sử, có thể được phân tích: “Chúa là có thể phân tích”, đó là sự tự phụ quá lố của các khoa học nhân văn. Rồi sau đó thì sao? Cơn chóng mặt của tính hiện đại, cái đó đã dẫn tôi đến chỗ quan tâm tới các trạng thái thần bí. Cuốn sách của tôi về Thérèse d’Avila, mà tôi định danh như là một truyện, là một sự cấu tạo nằm giữa tự sự liên quan đến cuộc đời bà và phân tích về trạng thái thần bí mà người kể chuyện tiến hành, tức là một chuyên gia tâm phân học đại diện cho tôi.

Bà sẽ định nghĩa như thế nào, bằng các thuật ngữ tâm phân học, ham muốn của lý thuyết gia văn học? Vị thế lý thuyết gia văn học là triệu chứng của điều gì?

Lý thuyết gia văn học không tồn tại. Ai thì cũng bắt gặp những ham muốn của chính mình ngay khi đề cập thứ giả kim thuật văn chương mà thôi. Ngay cả khi chỉ dừng lại trong địa hạt những điều chung chung, như ông đang khuyến khích tôi đây, vượt quá các cá nhân, những “trường phái” khác nhau quản lý cú sốc xúc cảm gây ra từ cuộc gặp gỡ với văn chương theo cách khác nhau. Nhà hình thức chủ nghĩa tự bảo vệ mình trước điều đó bằng cách thực thi một chiến lược ám ảnh gồm các sơ đồ nhận thức [schéma cognitif]: anh ta tìm cách vòng tránh sự sôi trào các ham muốn trong các từ, cái gây khó dễ cho các năng lực suy tư của anh ta, thông qua một động thái chế ngự rất lôgic. Những người khác, chẳng hạn như Barthes, thực hành phê bình văn học như một thứ hư cấu ở độ thứ hai, cái tiến lại gần sát thực tế văn chương hơn nhiều so với những người rao giảng “chân lý khách quan” cứ vờ tỏ ra. Nguy cơ thường gặp của cái cần được gọi là một “quá trình hư cấu hóa lý thuyết” là nó tự cho mình suy tư giỏi hơn văn chương, vượt quá khỏi văn chương bằng các phương tiện của chính văn chương. Một vị thế gây khó chịu cho các nhà văn, những người có cảm giác mình bị quy giản thành những đối tượng vô hình và bị cầm tù bởi ai đó chiếm lấy vị trí ông chủ, mà lại nhờ vào chính họ. Về phần mình, tôi thử nhận biết tác động thúc đẩy của tác phẩm văn chương, mà vẫn giữ nguyên cho nó tính chất bí ẩn của mình. Và đưa diễn giải của tôi lại gần đến mức tối đa với các trạng thái-cực hạn của nhà văn, với sự mong manh của anh ta và với các khả năng về thăng hoa của anh ta, nơi địa hạt của số phận cá nhân và của một nền văn minh.

Cuộc phiêu lưu của cái lý thuyết liệu có từng là một cuộc phiêu lưu đặc thù Pháp và nếu quả là như vậy, nó đã như thế nào? Lý thuyết có vẫn nguyên xi như vậy ở bất kỳ đâu không?

Chúng ta là những truyền nhân của thế kỷ XVIII, dù là theo cách hữu thức hay không, chính triết học của thế kỷ XVIII tại Pháp đã đặt người Pháp sát kề với văn chương. Diderot hay Voltaire chỉ là triết gia bởi họ đắm chìm vào thần năng của tiếng Pháp. Chính cái tính chất sáng tạo Pháp ấy trong da thịt một truyền thống ngôn từ lâu đời, vừa có tính chất cá nhân vừa có tính chất lịch sử, đã quyến rũ Nietzsche. Chẳng phải cũng là vì như vậy mà Heidegger có được sự đón nhận đặc biệt như thế tại Pháp hay sao?

Đà nhảy vọt của các khoa học nhân văn neo đậu trong các lôgic của ngôn từ, mãi cho đến tận tâm phân học, cái đưa các xúc cảm vào trong bản thân những lôgic, với tôi như thể thoát thai từ tinh thần của thế kỷ XVIII ấy. Điều đáng ngạc nhiên là sự phát tán trên thế giới của cách thức suy tư này đã được thực hiện bằng tiếng Anh ([Michel] Foucault, [Jacques] Derrida, [Gilles] Deleuze, và cả tác phẩm của chính tôi nữa, chúng được đọc bởi trước hết có thể đọc chúng tôi bằng tiếng Anh, nhờ vào các bản dịch do các ban tu thư đại học Mỹ thực hiện).

Mới đây tôi đã phát hiện, trong một dịp được mời tới Bảo tàng Freud tại Viên, và tới Đại học Humboldt ở Berlin, rằng các nhà nghiên cứu… Iran đã dựa vào các công trình của tôi để diễn giải… tchador [trang phục truyền thống của phụ nữ Hồi giáo Iran] và các burka [áo choàng che kín người mà phụ nữ Hồi giáo mặc ở chỗ công cộng]! Họ coi chúng như là những ký hiệu (ta quay trở lại với ký hiệu học) nhưng, lấy cảm hứng từ tâm phân học, họ phát hiện ở đó các trải nghiệm chủ quan của ham muốn hoặc sự ghê tởm soi rọi ở tầm sâu những xung đột xã hội và tôn giáo của một dòng văn hóa khác biệt với văn hóa của chúng ta đến vậy. Chẳng quan trọng gì cái việc không phải lúc nào tôi cũng tự nhận ra mình trong những ngoại suy đó, tôi đánh giá cao tính sáng tạo của thế hệ mới ở những đất nước mới nổi này, họ thực hành lý thuyết của chúng ta như là một trong số các ngành mỹ thuật: để vừa sống vừa suy tư về cái bất khả suy tư.

Bà có nghĩ rằng những gì từng được tạo lập dưới danh hiệu lý thuyết văn học ngày nay vẫn còn có tính hữu hiệu, một phẩm chất gây lật đổ hay không? Liệu có tương lai nào cho kiểu suy tư này không, hay bà có cảm giác đó là một giai đoạn đã lỗi thời về mặt lịch sử?

Tôi nghĩ mình đã trả lời câu hỏi này rồi, nhưng tôi cũng muốn nhấn mạnh vào đây. Các văn bản được viết từ 1965 đến nay thuộc vào lịch sử tư tưởng, và có thể được xem như là chứng nhân cho một giai đoạn lịch sử - cũng như người ta đọc Salons của Diderot hay của Baudelaire [các tác phẩm phê bình nghệ thuật]: những khoảnh khắc của một xã hội và các thị hiếu của nó. Cùng lúc, cái sự thôi thúc với tôi vẫn tiếp tục làm sống động sự tra vấn này về trải nghiệm chủ quan (nhưng ông cũng thấy rằng định nghĩa lý thuyết của tôi không phải “Lý Thuyết” nói chung mà ông quan tâm) còn có tính thời sự nóng bỏng hơn. Đối mặt với đế chế hình ảnh, đương đầu với sự dồn dập của các xúc cảm không hề mang mã các giá trị phổ quát, đàn ông và phụ nữ hiện đại liệu có trở thành các bề mặt ảo, những người tiêu thụ kiểu kamikaze, được đền bồi bởi những tiện ích của tiền bạc ảo và sự sinh đẻ có can dự? Hay, trái ngược lại, liệu những người đàn ông ấy, những người phụ nữ ấy, các cá thể kính vạn hoa, đa ngôn ngữ, mang trong mình các ký ức đa dạng hóa, sẽ có khả năng cáng đáng lấy chúng để phân tích chúng, có khả năng tin tưởng và tra vấn? Tôi chẳng mơ đâu. Các sinh viên đến với chúng tôi từ nhiều nước châu Âu, sức sống mong manh của dự án chính trị châu Âu, sự phong phú của căn cước châu Âu (đúng, căn cước, cái căn cước duy nhất trên đời không phải một sự thờ phụng mà là một sự tra vấn): ngần ấy lời hứa tạo nên đối trọng với tận thế. Và rồi, “Lý Thuyết”, như ông muốn thôi, theo cách mà tôi hiểu, là một trải nghiệm tư duy tạo thuận lợi cho sự bừng nở của các cá nhân kính vạn hoa ấy, những người có khả năng kết hợp sự chính xác của một phân tích kỹ thuật với tự do tưởng tượng chủ quan không ngừng là một câu hỏi cho chính nó.

(trích từ Vincent Kaufmann, La Faute à Mallarmé. L’aventure de la théorie littéraire [Lỗi của Mallarmé. Cuộc phiêu lưu của lý thuyết văn học], Seuil, 2011, tr. 256-263)

---------------------

Bài Vincent Kaufmann phỏng vấn Sollers

Dec 9, 2011

[VCLN] Hillis Miller + sửa chữa

Đây là bài phỏng vấn số chín trong tổng số mười bài tôi định dịch trong loạt phỏng vấn các lý thuyết gia của Vincent Kaufmann. Cho đến lúc này tôi mới có thể quay trở lại xem các bản dịch trước đây. Trong quá trình đăng những bài phỏng vấn này, Vi Văn Tuyên trên Tiền Vệ chỉ ra nhiều chỗ sai trong các bản dịch của tôi. Tôi sẽ lần lượt xem lại từng chỗ trong mỗi bài và bình luận từng chỗ. Đường link các bài sửa tôi để ở cuối post này.


J. Hillis Miller. Sinh năm 1928, giáo sư văn học Anh tại Đại học Johns Hopkins (1952-1972), tại Đại học Yale (1972-1986), rồi tại Đại học California, Irvine; tác phẩm chính: Thomas Hardy: Distance and Desire, 1970, Fiction and Repetition: Seven English Novels, 1982, The Linguistic Moment: From Wordsworth to Stevens, 1985, The Ethics of Reading: Kant, de Man, Eliot, Trollope, James, and Benjamin, 1987, Theory Now and Then, 1991, Speech Acts in Literature, 2001.


Ta hãy bắt đầu bằng Phê bình Mới, với ông từng rất quan trọng, chính là cái thống trị những năm tháng ông còn đi học. Liệu có thể nói rằng nó đã được thiết lập thành định chế ở mọi trường đại học quan trọng tại Mỹ vào thời điểm ông khởi đầu sự nghiệp học thuật của mình?

Đúng, điều đó có nghĩa mọi sinh viên tốt nghiệp đại học đều đã đọc [Cleanth] Brooks, [René] Wellek và [Austin] Warren. Khoa Anh ngữ tại Yale được coi là nhất nước vì Phê bình Mới đã được hình thành từ đây.

Vậy thì Phê bình Mới ở Mỹ chưa từng đóng cùng cái vai trò mà cấu trúc luận đã có thể đóng tại Pháp. Nó chưa từng bao giờ được coi như là tiền phong chủ nghĩa hay có tính chất lật đổ phải không?

Có hai câu trả lời cho câu hỏi này. Một mặt, Phê bình Mới có vẻ phi chính trị, nhưng đấy chỉ là vẻ ngoài thôi. Những người lập ra nó xuất thân từ miền Nam, họ là người Thiên chúa giáo, không những thế còn là người theo phái Giám lý, tức là dòng Tin lành tương đối bảo thủ gắn chặt với các hình thức cụ thể của thơ ca. Phê bình Mới tự muốn mình phi chính trị, nhưng ở bình diện tri thức nó lại truyền đạt một loạt giá trị khá là bảo thủ. Lý tưởng của nó là thơ ca siêu hình, tất tật được viết bởi các nhà thơ Thiên chúa giáo, cùng với đó còn là những khái niệm như tính thống nhất hữu cơ của bài thơ và, bởi vậy, cả một di sản của chủ nghĩa lãng mạn.

Mặt khác, nó đã đóng một vai trò quan trọng sau Thế chiến thứ hai, với nước Mỹ đó là thời điểm quan trọng để dân chủ hóa Đại học, mà chủ yếu người ta phải mở để phục vụ các cựu chiến binh. Nhiều trường đại học đã phát triển rất mau chóng, đón nhận nhiều thanh niên thuộc tầng lớp trung lưu dưới, những người về cơ bản chưa từng được hưởng giáo dục và mù tịt về truyền thống văn chương. Phê bình Mới đã tự áp đặt vào đúng lúc ấy, không phải vì các lý do chính trị, mà bởi nó đặt tiền giả định rằng nghiên cứu văn học không cần đến một hiểu biết đặc thù nào. Điều duy nhất cần có là một quyển từ điển để biết nghĩa các từ.

Điều này không phải là không có điểm tương đồng với trào lưu cấu trúc luận tại Pháp, cũng xuất hiện chính vào thời điểm phát triển mạnh mẽ của các trường đại học dành cho giới bình dân…

Có thể, nhưng cấu trúc luận là một phương pháp dễ làm chủ và khả dụng trong đủ mọi lĩnh vực. Vậy nên nó có cái gì đó mang tính chất phổ quát. Phê bình Mới thì chưa bao giờ như thế, nó chỉ quanh quẩn bên trong ngành nghiên cứu văn học.

Hồi những năm 1960 ông đã giảng dạy ở Đại học Johns Hopkins, đúng lúc trường là một trong những điểm tiếp xúc chính giữa nghiên cứu văn học anglo-saxon và phê bình mới của Pháp, rồi French Theory [lý thuyết Pháp], nhất là với cuộc hội thảo lừng danh năm 1967 mà cả [Jacques] Lacan và [Jacques] Derrida đều tham gia. Với ông, rất nhanh chóng, chủ yếu là tác phẩm của Derrida sẽ trở nên rất quan trọng. Tại sao? Ông ấy mang lại điều gì mới mẻ?

Vấn đề mà Derrida cho phép tôi giải quyết là như sau: với tôi, có tồn tại những tác phẩm văn chương rất quan trọng, nhưng chúng không thuộc về tính thống nhất hữu cơ nào. Derrida đã cho phép tôi đoạn tuyệt hoàn toàn với Phê bình Mới, ông ấy đã cho tôi các phương tiện để phân tích những tác phẩm hẳn nhiên là rất không đồng nhất, mâu thuẫn.

Có phải mối quan tâm của ông đối với Derrida trước hết mang tính chất tri thức? Có những nguyên do chính trị nào khiến ông quan tâm đến ông ấy không?

Đó là một mối quan tâm trước hết mang tính chất tri thức. Mãi sau này tôi mới bắt đầu suy nghĩ tới những hàm ý chính trị trong diễn ngôn và chỗ đứng của ông ấy, đến việc ông ấy không thuộc đảng Cộng sản, rằng ông ấy đã cãi nhau với Philippe Sollers v.v… Tôi có biết, nhưng thời ấy những chuyện đó với tôi không mấy quan trọng. Cũng tương tự với Paul de Man, người từng là đồng nghiệp của tôi ở Hopkins rồi Yale, với ông ấy tôi đã có thể hệ thống hóa toàn bộ vấn đề, một vấn đề trọng yếu đối với tôi, về tính chất bất khả quyết định [indécidabilité] của các văn bản. Tất nhiên, lúc đó tôi chưa hề biết những gì Paul de Man từng viết hồi chiến tranh. Nếu là bây giờ, hẳn tôi sẽ nhạy cảm hơn nhiều đối với những hàm ý chính trị trong diễn ngôn của họ và hẳn tôi sẽ quan tâm hơn, chẳng hạn vậy, tới các liên hệ giữa Derrida và Sartre, bởi Derrida bắt đầu dạy tại Trường Sư phạm Ulm đúng lúc ảnh hưởng chính trị của Sartre đang mạnh mẽ nhất. Hẳn Derrida đã bị Sartre ảnh hưởng theo một cách thức rất phức tạp. Mãi sau này tôi mới bắt đầu suy nghĩ đến kiểu các vấn đề ấy, khi những cuộc tấn công vào Derrida lớn mạnh ở Mỹ, hoặc người ta chê trách ông ấy đã phi chính trị, hoặc chê trách ông ấy đã đứng về phe những người bảo thủ.

Về mặt chính trị thì ông biện minh hay bảo vệ cho Derrida như thế nào, trong bối cảnh nước Mỹ?

Có rất nhiều điều học được khi đọc Derrida, đặc biệt từ các văn bản sau này của ông. Những gì độc giả trẻ tuổi tự định vị mình vào trong một trào lưu khuynh tả có thể học được ở ông, đó là để nhận lấy những vị thế chính trị có thể gây hiệu ứng, bạn phải tự đặt cho mình câu hỏi về trách nhiệm. Các sinh viên Mỹ từng tham gia những phong trào nổi loạn rõ ràng là sẵn sàng nhận lấy một trách nhiệm về những hiệu ứng của các cuộc chiếm đóng trường đại học hoặc các cuộc biểu tình đông người. Hiện nay, tôi lại mong sinh viên xuống đường, làm một cái gì đó, tôi mong có vài vụ lộn xộn. Derrida rất nghiêm túc với vấn đề các hàm ý chính trị của những gì ông làm. Đó là một trong các lý do khiến ông ấy chờ đợi lâu đến vậy mới viết về Marx.

Ông giải thích thế nào về sự thành công gây choáng váng của giải cấu trúc trong giới học thuật Mỹ?

Thành công của giải cấu trúc gắn liền với bối cảnh Phê bình Mới, cái đã chuẩn bị sẵn địa bàn cho nó. Ở trung tâm của giải cấu trúc cũng có phân tích ngôn từ. Do vậy nó có một sự hữu dụng rất nhiều tính chất thực hành, nó đã củng cố cho phân tích văn bản trong khuôn khổ của nghiên cứu văn học. Bởi chính đó là cái nằm ở trung tâm sự thực hành của Derrida: một phiên bản rất đặc thù của giải thích văn bản kiểu Pháp, cũng có thể áp dụng vào các văn bản triết học, cái cho phép xem xét một văn bản và khám phá ở đó những điều chưa từng có ai nhìn thấy. Tôi tin đó là lý do chính: đã có sẵn một bối cảnh cho phép đón nhận phương pháp của Derrida. Có lẽ còn có thêm một lý do nữa: chúng tôi là một đất nước trẻ, chúng tôi ít chắc chắn về thẩm quyền của mình và do đó luôn luôn sẵn sàng nhập khẩu các phương pháp và tư tưởng từ nơi khác, và đặc biệt hơn là từ Pháp, ngay cả khi chúng tôi làm việc đó với rất nhiều lo lắng.

Ngày nay vẫn luôn luôn có chỗ cho giải cấu trúc trong giới học thuật Mỹ chứ?

Ngày càng ít đi, vì đủ mọi lý do. Lý do đầu tiên là Derrida cùng những người theo ông đều rất khó đọc. Suy nghĩ về văn chương bằng những khái niệm ấy đòi hỏi nhiều nỗ lực. Lý do hiển nhiên thứ hai là sự thăng tiến mạnh mẽ của cultural studies [nghiên cứu văn hóa], cái thường đặt tiền giả định rằng giải cấu trúc về mặt chính trị là cái gì đó bảo thủ, ngay cả khi một người như Judith Butler chịu ảnh hưởng rất mạnh mẽ từ Derrida. Nhiều nhà phê bình thuộc trào lưu cultural studies cũng tương tự, điều đó không ngăn cản họ nói với sinh viên của mình đừng đọc những gì xuất phát từ giải cấu trúc. Nhưng lý do chính hẳn là sự thoái lưu chung của tầm quan trọng của văn chương trong nền văn hóa chúng tôi. Giờ đây tại các khoa văn học chúng tôi có thế hệ đầu tiên các trợ lý giáo sư được giáo dục trong một môi trường cấu thành nên từ phim, video, trò chơi điện tử và các loại phương tiện truyền thông mới. Dù cho họ có nói gì về mối quan tâm dành cho văn chương của mình và dù cho có thể mong muốn điều gì, chúng tôi cũng biết rằng họ không được cấu trúc nên từ việc đọc Shakespeare. Tôi hoàn toàn không chống lại tiến trình này, nhưng nó cũng có nghĩa văn chương nhanh chóng mất đi tầm quan trọng của mình. Biểu tượng cho tình thế ấy là một đồng nghiệp trẻ được tuyển vào làm ở Irvine cách đây vài năm với tư cách chuyên gia về Flaubert, cô ấy tin Flaubert là một người đàn ông da trắng đã chết và bảo sinh viên của mình đừng đọc Flaubert nữa, rằng làm thế là xấu. Cô ấy quan tâm đến trang phục, mốt và bắt tay nghiên cứu các tạp chí mốt dành cho phụ nữ da đen (cô ấy thì không da đen). Tôi tôn trọng vị thế của cô ấy, nhưng đó là một ví dụ huy hoàng cho sự sụp đổ của nền văn hóa văn chương mà tôi quan sát thấy, mà cũng là như vậy khi tôi giảng bài ở Trung Quốc hay những nơi khác, về các tác giả như Henry James. Sớm hay muộn thì cũng sẽ rõ ràng rằng với họ điều quan trọng hơn cả là các chuyển thể tác phẩm của James thành phim ảnh. Tôi nghĩ điều này là không thể đảo ngược, ít nhất là vào lúc này. Như vậy lý thuyết văn học đóng một vai trò ngày càng bớt phần quan trọng vì càng ngày càng có ít người đọc và dạy văn chương.

Như vậy hẳn ông có thể theo giả thuyết của [Michel] Foucault, người nói rằng lý thuyết văn học chính là tiếng hát thiên nga của một nền văn hóa thực sự có tính chất văn chương?

Đó là một giả thuyết mà tôi thấy là khả dĩ, ngay cả khi tôi nghĩ văn chương còn sống sót được một thời gian nữa, sẽ vẫn có người quan tâm đến nó. Nhưng Foucault có lý, nó không còn là cái lực tự nhiên và ở vào vị trí trung tâm của nền văn hóa nữa. Không phải vì lý thuyết đã giết chết nó. Mà lý thuyết, sự suy tư về bản chất của nó, về việc nó vận hành như thế nào, mọi thứ ấy quả thực đã xuất hiện vào lúc nó mất đi quyền lực của mình. Với những người thời Victoria, tiểu thuyết có tính chất trung tâm và xác quyết đối với hành xử của họ cũng như điện ảnh và các phương tiện truyền thông khác ngày nay. Bởi vậy, không cần phải nghĩ đến nó, tiểu thuyết là một thứ rất hiển nhiên. Chỉ khi tiểu thuyết gây ra vấn đề thì mới cần suy nghĩ về nó, không chỉ trong khuôn khổ lý thuyết văn học, mà cả trong bản thân khuôn khổ thực hành văn chương nữa. Thomas Pynchon hay E. L. Doctorow hẳn đã không viết những gì họ từng viết nếu với họ kịch, tiểu thuyết hay vị thế tác giả là những điều hiển nhiên. Cũng vậy, có thể Aristote đã viết Nghệ thuật thi ca của mình, chủ yếu hướng tới bi kịch Hy Lạp, vào đúng lúc bi kịch biến mất - ít nhất thì ngày nay cũng có một số người khẳng định điều đó.

(trích từ Vincent Kaufmann, La Faute à Mallarmé. L’aventure de la théorie littéraire [Lỗi của Mallarmé. Cuộc phiêu lưu của lý thuyết văn học], Seuil, 2011, tr. 270-275)

---------------------

Nguyên tắc tiến hành của tôi như sau: bản dịch đầu tiên tôi vẫn để, ở dưới cùng, bản sửa tôi để ngay trên đó. Những bản dịch có phê phán của Vi Văn Tuyên, tôi copy từng bình luận rồi nêu ý kiến của tôi luôn, cả phần này sẽ ở trên cùng. 

Những chỗ trong dấu [] in đậm là tôi mới thêm vào. Nếu phần trong [] không có gì đi kèm thì là tôi mới thêm vào, nếu phần trong [] đi ngay sau ngữ đoạn trong // thì tức là phần trong [] tôi muốn thay thế cho phần trong //, những chỗ tôi gạch bỏ sẽ có dấu gạch (đơn) nằm ngang qua những chữ muốn gạch.



Bài Vincent Kaufmann phỏng vấn Todorov 

Bài Vincent Kaufmann phỏng vấn Genette

Bài Vincent Kaufmann phỏng vấn Culler 

Bài Vincent Kaufmann phỏng vấn Stierle

Bài Vincent Kaufmann phỏng vấn Lotringer 

Bài Vincent Kaufmann phỏng vấn Roudinesco 

Bài Vincent Kaufmann phỏng vấn Pierssens

Dec 1, 2011

[VCLN] Pierssens


Bản sửa 14/12/2011

Michel Pierssens. Sinh năm 1945, giáo sư văn học Pháp tại Đại học Montréal, đồng sáng lập vào năm 1971 tạp chí Sub-Stance mà ông là một trong các biên tập viên, đồng thời là đồng giám đốc (cùng Jean-Jacques Lefrère) của tạp chí Histoires littéraires, tác giả của La Tour de Babil, 1976, Lautréamont. Éthique à Maldoror, 1984, Savoirs à l’oeuvre. Essais d’epistémocritique, 1991, Savoirs de Proust, 2005, Ducasse et Lautréamont. L’envers et l’endroit, 2006.


Tác phẩm La Tour de Babil. Essai sur la fiction du signe [Tháp Babil. Khảo luận về hư cấu của ký hiệu] (xuất bản năm 1976 ở NXB Minuit trong tủ sách “Critique”) đã ngay lập tức đặt ông vào trào lưu lý thuyết-phản tư. Vào thời in cuốn sách ấy, với ông đâu là những điều quan trọng?

Tôi vẫn luôn luôn quan tâm đến sự rối loạn, những tính chất bên lề. Thời ấy (1963) tôi ghi tên học ngành y (rồi nhanh chóng bỏ để chuyển sang văn chương), cái quyến rũ tôi là bệnh học tâm thần, kể cả /khía cạnh/ [phiên bản] tâm phân học của nó. Khi rẽ ngang sang nghiên cứu văn học, tôi đã phát hiện rằng những rối loạn của ngôn từ và tâm trí có thể là một đối tượng nghiên cứu liên ngành phối hợp cả ngôn ngữ học, phân tích văn học, tâm thần học. Vậy nên tôi muốn hiểu làm thế nào mà những cách thức không điển hình trong việc xử lý ngôn ngữ, dù cho nguồn gốc có là gì (bệnh học hay không) có thể là nguồn gốc cho những sáng tạo kỳ quặc và có vẻ như không thể giải thích cũng như những sáng tạo quy chuẩn nhiều hơn nhiều. Các điểm quan trọng trong những nghiên cứu mà tôi thực hiện [hồi đó] luôn luôn trước hết mang tính chất lý thuyết, ngay cả khi lẽ dĩ nhiên tôi không hề thờ ơ với những gì được nói vào thời ấy trong lĩnh vực phản tâm thần học, nhất là những biến thể kiểu Mỹ hay nói rộng hơn là kiểu anglo-saxon.

Những dấn thân trí thức của ông có dính dáng gì tới một cuộc chiến chính trị hay ý hệ không? Và làm thế nào để đặc trưng hóa cho cuộc chiến ấy, nếu nó có tồn tại? Nó có mới mẻ không?

Tôi sống ở Mỹ từ 1970 và khám phá các phong trào trí thức, theo lối trực tiếp, những thứ chỉ có được một tiếng vang bị bóp méo sang bên Pháp. Thế nên tôi không hề có cảm giác mình tham gia, theo nghĩa truyền thống, một cuộc chiến chính trị hay ý hệ. Hồi đó tôi thấy phong trào mà tôi /tham gia/ [tự đồng hóa vào] đang ở /vào/ giai đoạn chinh phục không thể cưỡng lại và sâu sắc hơn rất nhiều.

Ông có cảm giác là mình lặp lại những cuộc chiến của các phong trào tiền phong chủ nghĩa kiểu truyền thống không?

Dĩ nhiên là [hồi đó] tôi đọc mọi thứ liên quan tới cuộc tranh luận về chủ nghĩa Marx /hồi/ [trong lúc]/đang/ viết luận án tiến sĩ ở Aix-en-Provence và các bài giảng tôi thực hiện về chủ đề này (1968-1970) trước các sinh viên chiến sĩ tranh đấu thuộc đủ mọi nhóm phái thời đó, là những bài giảng hết sức chiết trung và đa dạng, đi từ Marx tới Lênin, từ Trotski tới Mao, từ Stalin tới [Louis] Althusser. Trước hết tôi muốn hiểu được những gì phức tạp, thậm chí các mâu thuẫn và ngõ cụt của toàn bộ truyền thống ấy, còn bản thân tôi hết sức dị ứng và hoài nghi trước những đơn giản hóa mà người ta đề xuất từ đó. Tôi hướng nhiều hơn tới những gì xuất phát từ Internationale situationniste [Quốc tế của chủ nghĩa tình thế], cái với tôi không phải là không tương thích với một số khía cạnh của chủ nghĩa Trotski - thứ chủ nghĩa đã trở nên thân thiện hơn nhiều với vai trò của các nhà siêu thực chủ nghĩa.

/Ông/ [Có thể] định nghĩa như thế nào về tính mới mẻ của một vị thế như vậy?

Hồi đó tôi thấy rằng chủ nghĩa tiền phong mà tôi thuộc về trước hết phải sở hữu một ý thức lịch sử rất mạnh mẽ và một cảm quan phê phán hoàn toàn không tương thích với những gì các chiến sĩ tranh đấu có tổ chức cao độ nhất đang tìm cách áp đặt. Sự nghèo nàn về mặt tri thức của phần lớn họ hay những ép buộc về phía những niềm tin giản lược khủng khiếp của họ khiến tôi thấy mọi phía đều bị thực tại vượt qua, đặc biệt là các thực tại do sự tưởng tượng chi phối ngôn ngữ tạo ra, trong thơ cũng như trong văn xuôi. Mọi thứ gì không phải [là] rối loạn có sức sinh sôi tôi đều thấy có tính chất tu từ và gây nghẹt thở một cách sâu sắc. Tôi thấy (và giờ vẫn thấy) rằng cần phải quan tâm đến mọi hình thức thể hiện được quyền năng của ham muốn giải thoát. Với tôi nước Pháp trên con đường mác xít hóa là một ngõ cụt thoái triển, ở đúng cái nơi nước Mỹ sáng tạo đầy táo bạo. Việc tôi đọc [Roland] Barthes, [Michel] Foucault hay [Gilles] Deleuze trực tiếp bị ảnh hưởng bởi điều đó: Barthes của sự phân mảnh và của ham muốn, Foucault của lịch sử/,/ bệnh điên và [của] [Raymond] Roussel, Deleuze tái sáng chế Nietzsche. Đó là những gì kích thích tôi.

Ông dạy học ở Montréal từ hơn ba mươi năm nay. Ông cũng là một trong những người sáng lập và cựu giám đốc tờ tạp chí Sub-Stance, một trong những cầu nối chính yếu giữa French Theory [Lý thuyết Pháp] và nước Mỹ. Ngày nay ông có cách nhìn như thế nào về hoạt động vượt tuyến này?

Lúc mới ở Mỹ, tôi cảm thấy rất mạnh mẽ rằng mình thuộc về một phong trào chinh phục /của/ theo kiểu tiền phong hẳn sẽ khiến người Mỹ khám phá những sự thật và tác phẩm gây xáo trộn, đoạn tuyệt hoàn toàn với truyền thống đại học như nó vẫn kêu ro ro tại các khoa văn học, các khoa Pháp ngữ cũng như các khoa Anh ngữ. Sức mạnh mang tính chất lật đổ của lý thuyết kiểu Pháp gây rất nhiều phấn chấn và công việc phổ biến thực sự được cảm thấy như là một cuộc chiến chống lại các lực thoái triển. Chúng tôi không đông lắm ở vị thế đó, tuy nhiên cũng là đủ để xô đổ những thành trì truyền thống, mặt khác lại là những thành trì rất thân thiện, theo cách đầy nghịch lý.

Ông có nghĩ rằng lý thuyết văn học, theo nghĩa rộng, đã đóng - và vẫn đóng - cùng vai trò ở Pháp và ở Mỹ không?

Có một khác biệt lớn giữa /địa hạt/ [các giới] có liên quan [đến vấn đề này] ở Pháp và ở Mỹ. Ở Pháp người ta có thể có cảm giác mình chạm vào tới rất sâu toàn bộ xã hội; ở Mỹ, rõ ràng /là/ cái thực tại duy nhất có thể ghi dấu ấn là trường đại học, lẽ dĩ nhiên là có cấu trúc chặt chẽ hơn nhiều, tập trung hơn nhiều, có tổ chức hơn nhiều so với ở Pháp. Đó là nơi duy nhất một cuộc chiến tri thức có thể tạo một tiếng vang và có một nghĩa.

Hành trình bên Mỹ của ông có làm biến đổi những dấn thân và định kiến trước đây của ông không? Ở những điểm nào?

Cùng lúc với các hoạt động người vượt tuyến của mình, tôi rất [nhanh chóng] quan tâm đến những gì bản thân người Mỹ tri nhận như là chủ nghĩa tiền phong tri thức của riêng họ: cái công trình liên ngành hết sức phong phú quy tụ các nhà ngôn ngữ học, các nhà nhân học, các triết gia, các nhà xã hội học, các nhà khoa học luận… Chính bằng cách ấy mà cái nghĩa tôi cấp cho từ “khoa học” đã biến đổi mạnh mẽ, chuyển từ quan niệm rất trừu tượng và cổ lỗ ở trong đầu các ý hệ gia người Pháp sang một quan niệm rất cụ thể và có tính chất thao tác cao độ như ở các sử gia về các ngành khoa học và các nhà khoa học luận người Mỹ. Do đó cái có thể được coi là lý thuyết văn học ở Pháp nhất thiết phải được viết lại vào trong những vấn đề rộng hơn nhiều và phức tạp hơn nhiều tại Mỹ, với sự can thiệp của cả lịch sử xã hội và văn hóa lẫn sinh học-thần kinh học hay vật lý.

Làm thế nào để diễn giải sự đối lập giữa ảnh hưởng /nhỏ bé/ [yếu ớt] của lý thuyết tại Đại học Pháp và uy tín của nó tại các trường đại học Mỹ?

Người Pháp rất e dè trong việc chấp nhận những đề xuất từ nghiên cứu văn hóa mà tôi thấy rằng sức mạnh đổi mới, mặc cho người ta có thể nghĩ gì về độ nghiêm ngặt hay đúng đắn của nó, là không thể chối cãi. Cách thức xây dựng lý thuyết văn học ở Pháp ngày nay với tôi là không đi kèm một chút tính hiệu quả xã hội và chính trị nào, điều mà tôi /thấy/ [cho rằng] hoàn toàn khác bên Mỹ. Lý thuyết Pháp mà tôi góp phần nhập khẩu trong những năm 1970 đã chuyển hóa thành một bộ máy trình hiện có sức huy động lớn. Tôi tin rằng ngày nay các hiệu ứng của nó nằm khắp nơi trong nền văn hóa và xã hội Mỹ và đóng góp vào sự năng động [mang tính chất đổi] mới của nó, trái ngược với những gì /đã/ [từng] diễn ra bên Pháp.

Nếu được làm lại, ông có lại lao vào cuộc phiêu lưu Mỹ nữa không?

Nếu được làm lại, tôi sẽ không ngần ngừ gì mà làm lại y hệt, bởi chính trong cuộc phiêu lưu Mỹ mà những gì tôi tìm cách truyền đạt đã tìm ra được tiếng vọng mà tôi thấy là có nhiều tính chất sáng tạo nhất. Sự tình cờ khiến tôi làm một nhân viên quân sự ở Mỹ trong vòng hai năm là một trong những tình cờ thuộc loại tích cực nhất mà tôi từng có ở /địa hạt/ [bình diện] tri thức.

Có những đoạn tuyệt trong các hướng đi của ông không? Suy tư lý thuyết về văn chương có còn thời sự không?

Tôi không có cảm giác hiện nay mình quan tâm đến những thứ rất khác những gì từng huy động con người tôi cách đây bốn mươi năm. Hẳn tôi đã /chính xác hóa/ [cụ thể hóa] được một chút cách nhìn về những liên hệ giữa hiểu biết và những cái khác trong văn hóa nói chung. Tôi đã mang theo nhiều kiến thức và sự chặt chẽ [hơn] vào những /bước đi/ [công việc] có bản tính lịch sử, những cái giờ đây với tôi giống như là các sự đảm bảo nhất thiết phải có cho bất kỳ quá trình lý thuyết hóa nào có đôi chút đáng tin cậy. Trong mắt tôi không có mâu thuẫn nào giữa công việc mà tôi làm với [tạp chí] Histoires littéraires và [trang web] epistemocritique.org. Như vậy đúng ra thì tôi có cảm giác về sự liên tục và đào sâu.

Tôi nghĩ rằng văn chương, cũng như các môn khoa học, sở hữu một năng lực gây phấn khích mạnh mẽ về việc làm người ta suy nghĩ. Tôi không tìm cách tạo lập lý thuyết chung về năng lực này, /như ngày xưa hẳn tôi đã cố làm/ [nếu là ngày xưa thì hẳn tôi đã thử làm]. Giờ đây tôi quan tâm nhiều hơn nhiều tới việc đọc các văn bản nhằm hiểu thật sâu sắc sức mạnh /đặc thù/ [riêng có] của chúng từ đâu đến và những gì chúng có khả năng tạo ra và biến đổi ở độc giả, theo lối cá nhân và theo lối tập thể. Tôi thấy đó là một điều chỉ có thể thực hiện theo cách thức ít nhiều có hiệu quả nếu chăm chú vào cách thức các hiểu biết đan cài vào với nhau, cả ở cái thời một văn bản được tạo ra lẫn vào thời của chúng ta bởi chúng ta chỉ có thể suy nghĩ bằng cách tự đặt mình vào bờ rìa của những gì chúng ta biết. Ba công trình [dossier] chính yếu mà tôi hy vọng có thể tiếp tục trong vài năm tới mỗi cái biểu lộ niềm tin ấy theo cách riêng của mình: một nghiên cứu về các quan hệ giữa văn chương và các môn khoa học giả hiệu vào thế kỷ XIX; một nghiên cứu khác về vinh quang và sự suy tàn của thơ ca khoa học; một khảo luận rộng [transversal] hơn về các nghệ thuật của sự rối loạn.

---------------------

Thêm một nhà nghiên cứu Pháp nhưng lại ở Mỹ :)

Michel Pierssens. Sinh năm 1945, giáo sư văn học Pháp tại Đại học Montréal, đồng sáng lập vào năm 1971 tạp chí Sub-Stance mà ông là một trong các biên tập viên, đồng thời là đồng giám đốc (cùng Jean-Jacques Lefrère) của tạp chí Histoires littéraires, tác giả của La Tour de Babil, 1976, Lautréamont. Éthique à Maldoror, 1984, Savoirs à l’oeuvre. Essais d’epistémocritique, 1991, Savoirs de Proust, 2005, Ducasse et Lautréamont. L’envers et l’endroit, 2006.


Tác phẩm La Tour de Babil. Essai sur la fiction du signe [Tháp Babil. Khảo luận về hư cấu của ký hiệu] (xuất bản năm 1976 ở NXB Minuit trong tủ sách “Critique”) đã ngay lập tức đặt ông vào trào lưu lý thuyết-phản tư. Vào thời in cuốn sách ấy, với ông đâu là những điều quan trọng?

Tôi vẫn luôn luôn quan tâm đến sự rối loạn, những tính chất bên lề. Thời ấy (1963) tôi ghi tên học ngành y (rồi nhanh chóng bỏ để chuyển sang văn chương), cái quyến rũ tôi là bệnh học tâm thần, kể cả khía cạnh tâm phân học của nó. Khi rẽ ngang sang nghiên cứu văn học, tôi đã phát hiện rằng những rối loạn của ngôn từ và tâm trí có thể là một đối tượng nghiên cứu liên ngành phối hợp cả ngôn ngữ học, phân tích văn học, tâm thần học. Vậy nên tôi muốn hiểu làm thế nào mà những cách thức không điển hình trong việc xử lý ngôn ngữ, dù cho nguồn gốc có là gì (bệnh học hay không) có thể là nguồn gốc cho những sáng tạo kỳ quặc và có vẻ như không thể giải thích cũng như những sáng tạo quy chuẩn nhiều hơn nhiều. Các điểm quan trọng trong những nghiên cứu mà tôi thực hiện luôn luôn trước hết mang tính chất lý thuyết, ngay cả khi lẽ dĩ nhiên tôi không hề thờ ơ với những gì được nói vào thời ấy trong lĩnh vực phản tâm thần học, nhất là những biến thể kiểu Mỹ hay nói rộng hơn là kiểu anglo-saxon.

Những dấn thân trí thức của ông có dính dáng gì tới một cuộc chiến chính trị hay ý hệ không? Và làm thế nào để đặc trưng hóa cho cuộc chiến ấy, nếu nó có tồn tại? Nó có mới mẻ không?

Tôi sống ở Mỹ từ 1970 và khám phá các phong trào trí thức, theo lối trực tiếp, những thứ chỉ có được một tiếng vang bị bóp méo sang bên Pháp. Thế nên tôi không hề có cảm giác mình tham gia, theo nghĩa truyền thống, một cuộc chiến chính trị hay ý hệ. Hồi đó tôi thấy phong trào mà tôi tham gia đang ở vào giai đoạn chinh phục không thể cưỡng lại và sâu sắc hơn rất nhiều.

Ông có cảm giác là mình lặp lại những cuộc chiến của các phong trào tiền phong chủ nghĩa kiểu truyền thống không?

Dĩ nhiên là tôi đọc mọi thứ liên quan tới cuộc tranh luận về chủ nghĩa Marx hồi đang viết luận án tiến sĩ ở Aix-en-Provence và các bài giảng tôi thực hiện về chủ đề này (1968-1970) trước các sinh viên chiến sĩ tranh đấu thuộc đủ mọi nhóm phái thời đó, là những bài giảng hết sức chiết trung và đa dạng, đi từ Marx tới Lênin, từ Trotski tới Mao, từ Stalin tới [Louis] Althusser. Trước hết tôi muốn hiểu được những gì phức tạp, thậm chí các mâu thuẫn và ngõ cụt của toàn bộ truyền thống ấy, còn bản thân tôi hết sức dị ứng và hoài nghi trước những đơn giản hóa mà người ta đề xuất từ đó. Tôi hướng nhiều hơn tới những gì xuất phát từ Internationale situationniste [Quốc tế của chủ nghĩa tình thế], cái với tôi không phải là không tương thích với một số khía cạnh của chủ nghĩa Trotski - thứ chủ nghĩa đã trở nên thân thiện hơn nhiều với vai trò của các nhà siêu thực chủ nghĩa.

Ông định nghĩa như thế nào về tính mới mẻ của một vị thế như vậy?

Hồi đó tôi thấy rằng chủ nghĩa tiền phong mà tôi thuộc về trước hết phải sở hữu một ý thức lịch sử rất mạnh mẽ và một cảm quan phê phán hoàn toàn không tương thích với những gì các chiến sĩ tranh đấu có tổ chức cao độ nhất đang tìm cách áp đặt. Sự nghèo nàn về mặt tri thức của phần lớn họ hay những ép buộc về phía những niềm tin giản lược khủng khiếp của họ khiến tôi thấy mọi phía đều bị thực tại vượt qua, đặc biệt là các thực tại do sự tưởng tượng chi phối ngôn ngữ tạo ra, trong thơ cũng như trong văn xuôi. Mọi thứ gì không phải rối loạn có sức sinh sôi tôi đều thấy có tính chất tu từ và gây nghẹt thở một cách sâu sắc. Tôi thấy (và giờ vẫn thấy) rằng cần phải quan tâm đến mọi hình thức thể hiện được quyền năng của ham muốn giải thoát. Với tôi nước Pháp trên con đường mác xít hóa là một ngõ cụt thoái triển, ở đúng cái nơi nước Mỹ sáng tạo đầy táo bạo. Việc tôi đọc [Roland] Barthes, [Michel] Foucault hay [Gilles] Deleuze trực tiếp bị ảnh hưởng bởi điều đó: Barthes của sự phân mảnh và của ham muốn, Foucault của lịch sử, bệnh điên và Roussel, Deleuze tái sáng chế Nietzsche. Đó là những gì kích thích tôi.

Ông dạy học ở Montréal từ hơn ba mươi năm nay. Ông cũng là một trong những người sáng lập và cựu giám đốc tờ tạp chí Sub-Stance, một trong những cầu nối chính yếu giữa French Theory [Lý thuyết Pháp] và nước Mỹ. Ngày nay ông có cách nhìn như thế nào về hoạt động vượt tuyến này?

Lúc mới ở Mỹ, tôi cảm thấy rất mạnh mẽ rằng mình thuộc về một phong trào chinh phục của theo kiểu tiền phong hẳn sẽ khiến người Mỹ khám phá những sự thật và tác phẩm gây xáo trộn, đoạn tuyệt hoàn toàn với truyền thống đại học như nó vẫn kêu ro ro tại các khoa văn học, các khoa Pháp ngữ cũng như các khoa Anh ngữ. Sức mạnh mang tính chất lật đổ của lý thuyết kiểu Pháp gây rất nhiều phấn chấn và công việc phổ biến thực sự được cảm thấy như là một cuộc chiến chống lại các lực thoái triển. Chúng tôi không đông lắm ở vị thế đó, tuy nhiên cũng là đủ để xô đổ những thành trì truyền thống, mặt khác lại là những thành trì rất thân thiện, theo cách đầy nghịch lý.

Ông có nghĩ rằng lý thuyết văn học, theo nghĩa rộng, đã đóng - và vẫn đóng - cùng vai trò ở Pháp và ở Mỹ không?

Có một khác biệt lớn giữa địa hạt có liên quan [đến vấn đề này] ở Pháp và ở Mỹ. Ở Pháp người ta có thể có cảm giác mình chạm vào tới rất sâu toàn bộ xã hội; ở Mỹ, rõ ràng là cái thực tại duy nhất có thể ghi dấu ấn là trường đại học, lẽ dĩ nhiên là có cấu trúc chặt chẽ hơn nhiều, tập trung hơn nhiều, có tổ chức hơn nhiều so với ở Pháp. Đó là nơi duy nhất một cuộc chiến tri thức có thể tạo một tiếng vang và có một nghĩa.

Hành trình bên Mỹ của ông có làm biến đổi những dấn thân và định kiến trước đây của ông không? Ở những điểm nào?

Cùng lúc với các hoạt động người vượt tuyến của mình, tôi rất quan tâm đến những gì bản thân người Mỹ tri nhận như là chủ nghĩa tiền phong tri thức của riêng họ: cái công trình liên ngành hết sức phong phú quy tụ các nhà ngôn ngữ học, các nhà nhân học, các triết gia, các nhà xã hội học, các nhà khoa học luận… Chính bằng cách ấy mà cái nghĩa tôi cấp cho từ “khoa học” đã biến đổi mạnh mẽ, chuyển từ quan niệm rất trừu tượng và cổ lỗ ở trong đầu các ý hệ gia người Pháp sang một quan niệm rất cụ thể và có tính chất thao tác cao độ như ở các sử gia về các ngành khoa học và các nhà khoa học luận người Mỹ. Do đó cái có thể được coi là lý thuyết văn học ở Pháp nhất thiết phải được viết lại vào trong những vấn đề rộng hơn nhiều và phức tạp hơn nhiều tại Mỹ, với sự can thiệp của cả lịch sử xã hội và văn hóa lẫn sinh học-thần kinh học hay vật lý.

Làm thế nào để diễn giải sự đối lập giữa ảnh hưởng nhỏ bé của lý thuyết tại Đại học Pháp và uy tín của nó tại các trường đại học Mỹ?

Người Pháp rất e dè trong việc chấp nhận những đề xuất từ nghiên cứu văn hóa mà tôi thấy rằng sức mạnh đổi mới, mặc cho người ta có thể nghĩ gì về độ nghiêm ngặt hay đúng đắn của nó, là không thể chối cãi. Cách thức xây dựng lý thuyết văn học ở Pháp ngày nay với tôi là không đi kèm một chút tính hiệu quả xã hội và chính trị nào, điều mà tôi thấy hoàn toàn khác bên Mỹ. Lý thuyết Pháp mà tôi góp phần nhập khẩu trong những năm 1970 đã chuyển hóa thành một bộ máy trình hiện có sức huy động lớn. Tôi tin rằng ngày nay các hiệu ứng của nó nằm khắp nơi trong nền văn hóa và xã hội Mỹ và đóng góp vào sự năng động mới của nó, trái ngược với những gì đã diễn ra bên Pháp.

Nếu được làm lại, ông có lại lao vào cuộc phiêu lưu Mỹ nữa không?

Nếu được làm lại, tôi sẽ không ngần ngừ gì mà làm lại y hệt, bởi chính trong cuộc phiêu lưu Mỹ mà những gì tôi tìm cách truyền đạt đã tìm ra được tiếng vọng mà tôi thấy là có nhiều tính chất sáng tạo nhất. Sự tình cờ khiến tôi làm một nhân viên quân sự ở Mỹ trong vòng hai năm là một trong những tình cờ thuộc loại tích cực nhất mà tôi từng có ở địa hạt tri thức.

Có những đoạn tuyệt trong các hướng đi của ông không? Suy tư lý thuyết về văn chương có còn thời sự không?

Tôi không có cảm giác hiện nay mình quan tâm đến những thứ rất khác những gì từng huy động con người tôi cách đây bốn mươi năm. Hẳn tôi đã chính xác hóa được một chút cách nhìn về những liên hệ giữa hiểu biết và những cái khác trong văn hóa nói chung. Tôi đã mang theo nhiều kiến thức và sự chặt chẽ vào những bước đi có bản tính lịch sử, những cái giờ đây với tôi giống như là các sự đảm bảo nhất thiết phải có cho bất kỳ quá trình lý thuyết hóa nào có đôi chút đáng tin cậy. Trong mắt tôi không có mâu thuẫn nào giữa công việc mà tôi làm với [tạp chí] Histoires littéraires và [trang web] epistemocritique.org. Như vậy đúng ra thì tôi có cảm giác về sự liên tục và đào sâu.

Tôi nghĩ rằng văn chương, cũng như các môn khoa học, sở hữu một năng lực gây phấn khích mạnh mẽ về việc làm người ta suy nghĩ. Tôi không tìm cách tạo lập lý thuyết chung về năng lực này, như ngày xưa hẳn tôi đã cố làm. Giờ đây tôi quan tâm nhiều hơn nhiều tới việc đọc các văn bản nhằm hiểu thật sâu sắc sức mạnh đặc thù của chúng từ đâu đến và những gì chúng có khả năng tạo ra và biến đổi ở độc giả, theo lối cá nhân và theo lối tập thể. Tôi thấy đó là một điều chỉ có thể thực hiện theo cách thức ít nhiều có hiệu quả nếu chăm chú vào cách thức các hiểu biết đan cài vào với nhau, cả ở cái thời một văn bản được tạo ra lẫn vào thời của chúng ta bởi chúng ta chỉ có thể suy nghĩ bằng cách tự đặt mình vào bờ rìa của những gì chúng ta biết. Ba công trình chính yếu mà tôi hy vọng có thể tiếp tục trong vài năm tới mỗi cái biểu lộ niềm tin ấy theo cách riêng của mình: một nghiên cứu về các quan hệ giữa văn chương và các môn khoa học giả hiệu vào thế kỷ XIX; một nghiên cứu khác về vinh quang và sự suy tàn của thơ ca khoa học; một khảo luận rộng hơn về các nghệ thuật của sự rối loạn.

(trích từ Vincent Kaufmann, La Faute à Mallarmé. L’aventure de la théorie littéraire [Lỗi của Mallarmé. Cuộc phiêu lưu của lý thuyết văn học], Seuil, 2011, tr. 275-280)

Nov 24, 2011

[VCLN] Roudinesco


Bản sửa 14/12/2011

Élizabeth Roudinesco. Sinh năm 1944, sử gia và nhà tâm phân học. Trong những năm 1970, bà cho đăng những bài phê bình văn học về Raymond Roussel, Antonin Artaud, Bertolt Brecht và Louis-Ferdinand Céline. Tác phẩm chủ yếu: Histoire de la psychanalyse en France (2 tập[)], 1982 và 1986/)/, Jacques Lacan. Esquisse d’une vie, histoire d’un système de pensée[,] /(/1993/)/, Généalogies[,] /(/1994/)/, La Part obscure de nous-même[s]. Une histoire des pervers[,] /(/2007/)/.


Làm thế nào mà bà lại quan tâm đến lý thuyết văn học, đến cấu trúc luận, v.v… rồi rời xa khỏi nó để trở thành sử gia - nhất là về tâm phân học - như mọi người biết tới ngày hôm nay?

Điểm xuất phát của tôi, hồi đầu những năm 1960[,] là [tờ tạp chí điện ảnh] Les Cahiers du cinéma. Đó là hiểu biết [culture] đầu tiên của tôi, một trào lưu mà lúc đó tôi coi là hình thức chủ nghĩa, trái ngược với [ý tưởng về] điện ảnh dấn thân. Ở một phía có những người nghĩ rằng /nhìn chung/ [về tổng thể] điện ảnh Mỹ không có chút giá trị nào vì nó mang dấu ấn ý hệ quá nặng, họ /chối từ/ [không thừa nhận] John Ford, Hitchcock, v.v… Đó đặc biệt là trường hợp của cánh tả mác xít, những người chẳng hiểu được một điều gì hết. Và ở phía kia có Les Cahiers du cinéma, được xem như là thuộc cánh hữu, bởi nó đi sâu vào nghiên cứu mặt hình thức của điện ảnh.

Rồi vào quãng 1966, tôi đọc [Michel] Foucault, tôi khám phá cấu trúc luận. Với tôi, có tồn tại một sự tiếp nối giữa điện ảnh Mỹ, nghĩa là một sự dấn thân về mặt mỹ học, và cấu trúc luận. Đó là một lựa chọn khác với sự dấn thân kiểu mác xít mà tôi không ưa, vì các lựa chọn vị thế của những người mác xít đối với văn chương. Hồi ấy, tôi đang theo học văn chương và đăng ký học ngôn ngữ học. André Martinet dạy, nhưng có lệnh cấm đọc [Roman] Jakobson. Tôi bắt đầu khám phá các nhà cấu trúc luận và thực sự là để việc giảng dạy ngôn ngữ học - Jakobson, [Ferdinand de] Saussure, các nhà hình thức chủ nghĩa - trở nên có thể ở Sorbonne, thế chỗ cho các vị trưởng lão chẳng mấy thú vị, mà tôi đã xuống đường. Tháng Năm năm 1968 là để làm điều đó. Chính tại Sorbonne tôi đã gặp Mitsou Ronat, rồi vào tháng Năm 1968, Henri Deluy, người phụ trách tờ tạp chí Action poétique, tờ tạp chí rất gần với đảng Cộng sản, nhưng lại không /bước hẳn vào con đường/ [khuyến khích sự] dấn thân [kiểu] mác xít. Cuộc gặp gỡ với Action poétique đã cho phép tôi thoát khỏi mọi thái độ khuynh tả [gauchisme] và đưa tôi lại gần đảng Cộng sản vì nó chứa đựng một điều thú vị hơn, chính là quá trình giải Stalin hóa của nó. Action poétique, về thực chất đó là các trí thức viết thơ và suy tư /tới/ [về][bảo trợ] [Louis] Aragon, một người dù thế nào đi nữa cũng rất hấp dẫn, và còn có cả [Louis] Althusser. Maiakovski, các nhà tiền phong, Jakobson, những nhà thơ lớn của Nga, với gương mặt /thủ lĩnh/

Ở điểm cụ thể này Action poétique gần với đảng Cộng sản hơn các tờ tạp chí khác - nhất là Tel QuelAction poétique mà tôi có tham gia, là để chống Jdanov. Chúng tôi quan tâm đến các thứ tiền phong và lịch sử các phong trào tiền phong. - bởi nhiều nhà thơ tham gia ở đó là người cộng sản, nhưng là trong một khuynh hướng giải trừ Stalin triệt để. Có một sự chia rẽ hoàn toàn giữa sự viết và sự dấn thân. Sự dấn thân chính trị là một thứ, sự viết lại là một thứ khác hẳn. Những số đầu của tờ

Như vậy là với bà tiền phong và chính trị là hai thứ /khác hẳn/ [phân biệt hẳn với] nhau. Bà không tin vào một thứ chính trị của các trào lưu tiền phong ư?

Có chứ, nhưng nó [tiền phong] không tương thích với một đường hướng chính trị. Có một chính trị của các phong trào tiền phong về bản chất là một cuộc cách mạng [của các] hình thức, điều đó làm người ta đọc được cả Ezra Pound lẫn Pablo Neruda. Đó là ý tưởng cho rằng văn chương không bao giờ bị giảm trừ thành sự dấn thân chính trị. Ý tưởng then chốt với các nhà cấu trúc luận là có những hình thức tuyệt đối mới và có tính chất đổi mới trong các văn bản không hề phản ánh một chút dấn thân chính trị theo kiểu tiến bộ, mác xít, cộng sản nào. Sự mâu thuẫn này, tôi đã biết đến từ tờ Les Cahiers du cinéma.

Điều quan trọng trong những năm tôi hợp tác với Action poétique là gìn giữ sự nghiên cứu, tri thức và lịch sử khỏi mọi kiểu lập đội ngũ. Vấn đề là tạo ra một khoảng không gian tự trị nơi có thể suy tư về các hình thức. Không hình thức nào là cách mạng hơn một hình thức khác. Ngay cả khi say mê tính hiện đại, việc đọc [James] Joyce, chẳng hạn, cũng không ngăn cản người ta đọc [Alexandre] Dumas. Cả hai đều hiện đại. Thay vì định ra một lát cắt làm cho một số người nói rằng ta không còn có thể đọc tiểu thuyết thế kỷ XIX, điều mà tôi quan tâm là sự tái diễn giải /vĩnh viễn/ [thường hằng][mới] là nơi cư ngụ của tính hiện đại chứ hoàn toàn không phải trong cái hướng đi nói rằng văn bản này là hiện đại còn văn bản khác thì không. các văn bản. Theo tôi đó

Quả thực, bằng cách ấy ngay lập tức bà đã ở vào vị trí chênh vênh trong liên hệ với các xu hướng thống trị của trào lưu lý thuyết-suy tư, mang dấu ấn rất sâu đậm của chủ nghĩa tiền phong. Đó có phải là lý do khiến bà rời xa trào lưu này?

Đúng, vì lý do ấy đấy, nhưng tôi cũng học được vô cùng nhiều điều trong những năm đó. Đó là những năm học nghề của tôi, quãng thời gian tôi học đọc văn chương theo cách khác. Nhưng tôi không hề nhất trí với thứ chủ nghĩa lý thuyết văn học. Tôi /rời xa/ [giữ khoảng cách với] lý thuyết văn học là bởi những sự kỳ quái của nó, nhưng tôi vẫn lưu giữ tình yêu đối với việc đọc [Roland] Barthes hay Foucault. Tại sao? Vì tôi từng muốn viết truyện, tôi từng muốn đi về phía tự sự. Ham muốn ấy có tính chất quyết định trong sự chuyển hướng của tôi sang lịch sử.

Như vậy là bà trở thành sử gia, và cùng lúc thành nhà tâm phân học. Tại sao?

Vào thời ấy không thể nào viết về tâm phân học, với Trường Freud Paris, Lacan… mà không bắt tay vào một cuộc phân tích cá nhân. Đó là một điều không thể nghĩ nổi. Ngày nay, các tác giả xử lý tâm phân học giỏi nhất không phải các nhà tâm phân học và không nhất thiết phải thực hiện một phân tích nhưng, thời ấy, đó là điều không thể nghĩ nổi. Vậy là, tôi đã đi đến với việc phân tích vì các lý do thuần túy trí thức. Tôi rất ổn và ý tưởng làm một phân tích lên mình bởi mình không ổn thậm chí còn không thoáng qua óc tôi. Cũng như vậy đối với cả một thế hệ với động lực thứ nhất là đi tới với sự phân tích để có được cái trải nghiệm đặc biệt này, khám phá bản thân. Do đó không thể có chuyện không đi tới đó. Tuy nhiên với tôi thực hành phân tích vẫn luôn luôn là thứ yếu, mặc dù tôi say mê với bệnh viện và bệnh nhân - người ta không thể làm được hết mọi việc.

Có phải là vì thực hành phân tích là thứ yếu nên chưa bao giờ bà tìm cách nói về [articuler] văn chương hay nói chính xác hơn là lý thuyết văn học và tâm phân học như rất nhiều người sẽ làm vào đầu những năm 1970 ấy?

Đúng, chính điều ngược lại mới hấp dẫn tôi, tôi những muốn đặt tâm phân học vào lịch sử văn chương hoặc /trong/ [vào] lịch sử nói chung, cứu nó thoát ra khỏi cái pháo đài nơi nó bị giam cầm vì tôi nghĩ ở đó có một thứ chủ nghĩa giáo điều và một ngõ cụt. Vào thời ấy tôi coi chủ nghĩa lý thuyết [về] tâm phân học mác xít và văn học đã kết thúc rồi, rằng người ta đang tiến tới một ngõ cụt, rằng toàn bộ những thứ ấy sẽ sụp đổ.

Và liệu ngày nay mặc cho mọi thứ vẫn còn lại một cái gì đó hay không?

Hẳn là chẳng còn lại gì hết, nếu không phải cái ý tưởng theo đó sống và nghĩ như vậy còn tốt hơn rất nhiều so với chấp nhận trật tự mọi sự. Có lẽ tất cả những thứ ấy đã biến mất, nhưng chúng từng rất rực rỡ. Cám ơn những thái quá, những kỳ quặc, chủ nghĩa lý thuyết, sự quá lời, sự vi phạm. Ngay cả khi không chịu đựng nổi thì tôi vẫn thích kể lại toàn bộ câu chuyện ấy, sau này khi tôi đã chuyển sang làm lịch sử. Tôi rất cổ điển, nhưng kiểm kê lại thì thấy thật huy hoàng. Những cuộc cãi cọ ấy, những xung đột ấy - cãi cọ với nhau hàng đêm liền về một câu thơ của [Stéphane] Mallarmé - còn tốt hơn chán vạn đọc những thứ xuẩn ngốc ngày nay người ta gọi là văn chương. Thế nên, vì cố thích ứng với thời /của mình/ [mình đang sống] và không thích nói thời của tôi thì hay ho hơn, tôi không nói gì cả, tôi làm những gì mình có thể, tôi nói những cái đó trong các cuốn sách của tôi, nhưng dù sao thì, phải, trong lĩnh vực này - chứ không phải [những] chỗ khác - thì xưa kia trăm lần tốt đẹp hơn.

Bà có nhìn thấy một vị trí và một tương lai cho cái lý thuyết không?

Nó sẽ bắt đầu trở lại, nhưng ta chẳng bao giờ biết được là dưới hình thức nào. Bởi vậy, cần [chăm chú] lắng nghe mọi thứ. Chắc chắn nó sẽ bắt đầu trở lại, nhưng ta không thực sự biết là như thế nào. Dù sao thì cái mà tôi nhìn thấy là có vô cùng nhiều người - chắc chắn là thiểu số thôi nhưng cũng là có - ở độ tuổi ba mươi, ba mươi lăm nói rằng toàn bộ cái đó thật là tuyệt diệu, rằng bây giờ không còn chỗ cho nó nữa.

Theo bà có điều gì đó đặc thù Pháp trong cuộc phiêu lưu lý thuyết không?

Nước Pháp là đất nước duy nhất nơi, trước hết với cuộc cách mạng rồi sau đó là vụ Dreyfus, tự tạo dựng cho mình một tầng lớp trí thức. Hiện tượng không tồn tại ở bất kỳ đâu khác và điều này mang lại cả những gì tốt đẹp nhất lẫn những gì tồi tệ nhất. Pháp là đất nước duy nhất từng có một vụ Dreyfus. [Émile] Zola chống lại [Maurice] Barrès. Nước Pháp triền miên nhắc đi nhắc lại rằng Zola chống lại Barrès, nhưng điều đó đã xảy ra với Cách mạng Pháp rồi. Tại sao? Bởi từng có Ánh sáng, rồi Victor Hugo. Điều đó triền miên xảy ra trở lại. Người trí thức hoặc nhà văn trở thành trí thức nắm giữ ở Pháp một vị trí không ở nơi nào khác có được, đó là một điều cũng gắn liền với tính chất phổ quát của quyền con người.

Vụ Dreyfus cứ xảy ra đi xảy ra lại /nhiều lần,/ hai mươi năm một lần, dưới các hình thức khác nhau. Nước Pháp tạo ra quyền con người, và cả điều tồi tệ nhất nữa. Đây là đất nước duy nhất từng có những người theo chủ nghĩa cộng tác đáng ghê tởm đến thế. Ezra Pound, ở bên cạnh Céline, [Lucien] Rebatet hay [Robert] de Brasillach thật chẳng đáng gì. Nước Pháp đi rất xa theo hướng ngược lại. Dù sao thì cũng chính là các nhà văn như Ernest Renan đã tạo ra chủ nghĩa bài Do Thái. Cuốn sách La France juive [Nước Pháp Do Thái] của [Édouard] Drumont là một văn bản viết ra không hề có tương đương tại các nước khác. Có rất nhiều người theo chủ nghĩa chối bỏ trong thế giới anglo-saxon, nhưng đó lại không phải là những người tạo ra ngôn từ. Chỉ ở Pháp mới có [Robert] Faurisson. Ông ta đã khởi đầu bằng việc nghiên cứu về [Arthur] Rimbaud và Lautréamont. Đó là một người từng học lớp dự bị [khâgneux], học sinh của Jean Beaufret người đưa Heidegger vào Pháp. Đó là một thầy giáo từng qua lớp dự bị, hiện tượng duy nhất trên thế giới. Và khi đọc Faurisson, thì ta thấy đó hoàn toàn không phải cái gì /đó/ giống như những người theo chủ nghĩa chối bỏ khác. Trước hết, nó điên rồ hơn và, sau đó, cái đó chạm tới tiếng Pháp, bởi nó khởi đầu bằng việc đặt lại vấn đề về Rimbaud và Lautréamont. Ở Pháp, những điều tồi tệ nhất và những điều tốt đẹp nhất luôn luôn /vận hành/ [được cấu âm - s’articuler] quanh ngôn ngữ và văn chương. Pháp là đất nước duy nhất trên thế giới coi mình sở hữu một ngôn ngữ phổ quát, đất nước có được một Viện Hàn lâm Pháp, hết sức kiêu hãnh về ngôn ngữ của mình, coi tiếng Pháp như một định chế. Cách mạng đã tạo lập tiếng Pháp như là ngôn ngữ quốc gia, tức là mọi người phải nói thật giỏi. Toàn bộ điều này có lẽ ngày nay đang tan rã, nhưng tôi không chắc chắn là việc đó sẽ diễn ra một cách dễ dàng.

---------------------

Élizabeth Roudinesco. Sinh năm 1944, sử gia và nhà tâm phân học. Trong những năm 1970, bà cho đăng những bài phê bình văn học về Raymond Roussel, Antonin Artaud, Bertolt Brecht và Louis-Ferdinand Céline. Tác phẩm chủ yếu: Histoire de la psychanalyse en France (2 tập, 1982 và 1986), Jacques Lacan. Esquisse d’une vie, histoire d’un système de pensée (1993), Généalogies (1994), La Part obscure de nous-même. Une histoire des pervers (2007).


Làm thế nào mà bà lại quan tâm đến lý thuyết văn học, đến cấu trúc luận, v.v… rồi rời xa khỏi nó để trở thành sử gia - nhất là về tâm phân học - như mọi người biết tới ngày hôm nay?

Điểm xuất phát của tôi, hồi đầu những năm 1960 là [tờ tạp chí điện ảnh] Les Cahiers du cinéma. Đó là hiểu biết đầu tiên của tôi, một trào lưu mà lúc đó tôi coi là hình thức chủ nghĩa, trái ngược với điện ảnh dấn thân. Ở một phía có những người nghĩ rằng nhìn chung điện ảnh Mỹ không có chút giá trị nào vì nó mang dấu ấn ý hệ quá nặng, họ chối từ John Ford, Hitchcock, v.v… Đó đặc biệt là trường hợp của cánh tả mác xít, những người chẳng hiểu được một điều gì hết. Và ở phía kia có Les Cahiers du cinéma, được xem như là thuộc cánh hữu, bởi nó đi sâu vào nghiên cứu mặt hình thức của điện ảnh.

Rồi vào quãng 1966, tôi đọc [Michel] Foucault, tôi khám phá cấu trúc luận. Với tôi, có tồn tại một sự tiếp nối giữa điện ảnh Mỹ, nghĩa là một sự dấn thân về mặt mỹ học, và cấu trúc luận. Đó là một lựa chọn khác với sự dấn thân kiểu mác xít mà tôi không ưa, vì các lựa chọn vị thế của những người mác xít đối với văn chương. Hồi ấy, tôi đang theo học văn chương và đăng ký học ngôn ngữ học. André Martinet dạy, nhưng có lệnh cấm đọc [Roman] Jakobson. Tôi bắt đầu khám phá các nhà cấu trúc luận và thực sự là để việc giảng dạy ngôn ngữ học - Jakobson, Saussure, các nhà hình thức chủ nghĩa - trở nên có thể ở Sorbonne, thế chỗ cho các vị trưởng lão chẳng mấy thú vị, mà tôi đã xuống đường. Tháng Năm năm 1968 là để làm điều đó. Chính tại Sorbonne tôi đã gặp Mitsou Ronat, rồi vào tháng Năm 1968, Henri Deluy, người phụ trách tờ tạp chí Action poétique, tờ tạp chí rất gần với đảng Cộng sản, nhưng lại không bước hẳn vào con đường dấn thân mác xít. Cuộc gặp gỡ với Action poétique đã cho phép tôi thoát khỏi mọi thái độ khuynh tả [gauchisme] và đưa tôi lại gần đảng Cộng sản vì nó chứa đựng một điều thú vị hơn, chính là quá trình giải Stalin hóa của nó. Action poétique, về thực chất đó là các trí thức viết thơ và suy tư tới Maiakovski, các nhà tiền phong, Jakobson, những nhà thơ lớn của Nga, với gương mặt thủ lĩnh [Louis] Aragon, một người dù thế nào đi nữa cũng rất hấp dẫn, và còn có cả [Louis] Althusser.

Ở điểm cụ thể này Action poétique gần với đảng Cộng sản hơn các tờ tạp chí khác - nhất là Tel QuelAction poétique mà tôi có tham gia, là để chống Jdanov. Chúng tôi quan tâm đến các thứ tiền phong và lịch sử các phong trào tiền phong. - bởi nhiều nhà thơ tham gia ở đó là người cộng sản, nhưng là trong một khuynh hướng giải trừ Stalin triệt để. Có một sự chia rẽ hoàn toàn giữa sự viết và sự dấn thân. Sự dấn thân chính trị là một thứ, sự viết lại là một thứ khác hẳn. Những số đầu của tờ

Như vậy là với bà tiền phong và chính trị là hai thứ khác hẳn nhau. Bà không tin vào một thứ chính trị của các trào lưu tiền phong ư?

Có chứ, nhưng nó không tương thích với một đường hướng chính trị. Có một chính trị của các phong trào tiền phong về bản chất là một cuộc cách mạng hình thức, điều đó làm người ta đọc được cả Ezra Pound lẫn Pablo Neruda. Đó là ý tưởng cho rằng văn chương không bao giờ bị giảm trừ thành sự dấn thân chính trị. Ý tưởng then chốt với các nhà cấu trúc luận là có những hình thức tuyệt đối mới và có tính chất đổi mới trong các văn bản không hề phản ánh một chút dấn thân chính trị theo kiểu tiến bộ, mác xít, cộng sản nào. Sự mâu thuẫn này, tôi đã biết đến từ tờ Les Cahiers du cinéma.

Điều quan trọng trong những năm tôi hợp tác với Action poétique là gìn giữ sự nghiên cứu, tri thức và lịch sử khỏi mọi kiểu lập đội ngũ. Vấn đề là tạo ra một khoảng không gian tự trị nơi có thể suy tư về các hình thức. Không hình thức nào là cách mạng hơn một hình thức khác. Ngay cả khi say mê tính hiện đại, việc đọc [James] Joyce, chẳng hạn, cũng không ngăn cản người ta đọc [Alexandre] Dumas. Cả hai đều hiện đại. Thay vì định ra một lát cắt làm cho một số người nói rằng ta không còn có thể đọc tiểu thuyết thế kỷ XIX, điều mà tôi quan tâm là sự tái diễn giải vĩnh viễn các văn bản. Theo tôi đó là nơi cư ngụ của tính hiện đại chứ hoàn toàn không phải trong cái hướng đi nói rằng văn bản này là hiện đại còn văn bản khác thì không.

Quả thực, bằng cách ấy ngay lập tức bà đã ở vào vị trí chênh vênh trong liên hệ với các xu hướng thống trị của trào lưu lý thuyết-suy tư, mang dấu ấn rất sâu đậm của chủ nghĩa tiền phong. Đó có phải là lý do khiến bà rời xa trào lưu này?

Đúng, vì lý do ấy đấy, nhưng tôi cũng học được vô cùng nhiều điều trong những năm đó. Đó là những năm học nghề của tôi, quãng thời gian tôi học đọc văn chương theo cách khác. Nhưng tôi không hề nhất trí với thứ chủ nghĩa lý thuyết văn học. Tôi rời xa lý thuyết văn học là bởi những sự kỳ quái của nó, nhưng tôi vẫn lưu giữ tình yêu đối với việc đọc [Roland] Barthes hay Foucault. Tại sao? Vì tôi từng muốn viết truyện, tôi từng muốn đi về phía tự sự. Ham muốn ấy có tính chất quyết định trong sự chuyển hướng của tôi sang lịch sử.

Như vậy là bà trở thành sử gia, và cùng lúc thành nhà tâm phân học. Tại sao?

Vào thời ấy không thể nào viết về tâm phân học, với Trường Freud Paris, Lacan… mà không bắt tay vào một cuộc phân tích cá nhân. Đó là một điều không thể nghĩ nổi. Ngày nay, các tác giả xử lý tâm phân học giỏi nhất không phải các nhà tâm phân học và không nhất thiết phải thực hiện một phân tích nhưng, thời ấy, đó là điều không thể nghĩ nổi. Vậy là, tôi đã đi đến với việc phân tích vì các lý do thuần túy trí thức. Tôi rất ổn và ý tưởng làm một phân tích lên mình bởi mình không ổn thậm chí còn không thoáng qua óc tôi. Cũng như vậy đối với cả một thế hệ với động lực thứ nhất là đi tới với sự phân tích để có được cái trải nghiệm đặc biệt này, khám phá bản thân. Do đó không thể có chuyện không đi tới đó. Tuy nhiên với tôi thực hành phân tích vẫn luôn luôn là thứ yếu, mặc dù tôi say mê với bệnh viện và bệnh nhân - người ta không thể làm được hết mọi việc.

Có phải là vì thực hành phân tích là thứ yếu nên chưa bao giờ bà tìm cách nói về văn chương hay nói chính xác hơn là lý thuyết văn học và tâm phân học như rất nhiều người sẽ làm vào đầu những năm 1970 ấy?

Đúng, chính điều ngược lại mới hấp dẫn tôi, tôi những muốn đặt tâm phân học vào lịch sử văn chương hoặc trong lịch sử nói chung, cứu nó thoát ra khỏi cái pháo đài nơi nó bị giam cầm vì tôi nghĩ ở đó có một thứ chủ nghĩa giáo điều và một ngõ cụt. Vào thời ấy tôi coi chủ nghĩa lý thuyết tâm phân học mác xít và văn học đã kết thúc rồi, rằng người ta đang tiến tới một ngõ cụt, rằng toàn bộ những thứ ấy sẽ sụp đổ.

Và liệu ngày nay mặc cho mọi thứ vẫn còn lại một cái gì đó hay không?

Hẳn là chẳng còn lại gì hết, nếu không phải cái ý tưởng theo đó sống và nghĩ như vậy còn tốt hơn rất nhiều so với chấp nhận trật tự mọi sự. Có lẽ tất cả những thứ ấy đã biến mất, nhưng chúng từng rất rực rỡ. Cám ơn những thái quá, những kỳ quặc, chủ nghĩa lý thuyết, sự quá lời, sự vi phạm. Ngay cả khi không chịu đựng nổi thì tôi vẫn thích kể lại toàn bộ câu chuyện ấy, sau này khi tôi đã chuyển sang làm lịch sử. Tôi rất cổ điển, nhưng kiểm kê lại thì thấy thật huy hoàng. Những cuộc cãi cọ ấy, những xung đột ấy - cãi cọ với nhau hàng đêm liền về một câu thơ của Mallarmé - còn tốt hơn chán vạn đọc những thứ xuẩn ngốc ngày nay người ta gọi là văn chương. Thế nên, vì cố thích ứng với thời của mình và không thích nói thời của tôi thì hay ho hơn, tôi không nói gì cả, tôi làm những gì mình có thể, tôi nói những cái đó trong các cuốn sách của tôi, nhưng dù sao thì, phải, trong lĩnh vực này - chứ không phải chỗ khác - thì xưa kia trăm lần tốt đẹp hơn.

Bà có nhìn thấy một vị trí và một tương lai cho cái lý thuyết không?

Nó sẽ bắt đầu trở lại, nhưng ta chẳng bao giờ biết được là dưới hình thức nào. Bởi vậy, cần lắng nghe mọi thứ. Chắc chắn nó sẽ bắt đầu trở lại, nhưng ta không thực sự biết là như thế nào. Dù sao thì cái mà tôi nhìn thấy là có vô cùng nhiều người - chắc chắn là thiểu số thôi nhưng cũng là có - ở độ tuổi ba mươi, ba mươi lăm nói rằng toàn bộ cái đó thật là tuyệt diệu, rằng bây giờ không còn chỗ cho nó nữa.

Theo bà có điều gì đó đặc thù Pháp trong cuộc phiêu lưu lý thuyết không?

Nước Pháp là đất nước duy nhất nơi, trước hết với cuộc cách mạng rồi sau đó là vụ Dreyfus, tự tạo dựng cho mình một tầng lớp trí thức. Hiện tượng không tồn tại ở bất kỳ đâu khác và điều này mang lại cả những gì tốt đẹp nhất lẫn những gì tồi tệ nhất. Pháp là đất nước duy nhất từng có một vụ Dreyfus. Zola chống lại Barrès. Nước Pháp triền miên nhắc đi nhắc lại rằng Zola chống lại Barrès, nhưng điều đó đã xảy ra với Cách mạng Pháp rồi. Tại sao? Bởi từng có Ánh sáng, rồi Victor Hugo. Điều đó triền miên xảy ra trở lại. Người trí thức hoặc nhà văn trở thành trí thức nắm giữ ở Pháp một vị trí không ở nơi nào khác có được, đó là một điều cũng gắn liền với tính chất phổ quát của quyền con người.

Vụ Dreyfus cứ xảy ra đi xảy ra lại nhiều lần, hai mươi năm một lần, dưới các hình thức khác nhau. Nước Pháp tạo ra quyền con người, và cả điều tồi tệ nhất nữa. Đây là đất nước duy nhất từng có những người theo chủ nghĩa cộng tác đáng ghê tởm đến thế. Ezra Pound, ở bên cạnh Céline, [Lucien] Rebatet hay [Robert] de Brasillach thật chẳng đáng gì. Nước Pháp đi rất xa theo hướng ngược lại. Dù sao thì cũng chính là các nhà văn như Ernest Renan đã tạo ra chủ nghĩa bài Do Thái. Cuốn sách La France juive [Nước Pháp Do Thái] của [Édouard] Drumont là một văn bản viết ra không hề có tương đương tại các nước khác. Có rất nhiều người theo chủ nghĩa chối bỏ trong thế giới anglo-saxon, nhưng đó lại không phải là những người tạo ra ngôn từ. Chỉ ở Pháp mới có [Robert] Faurisson. Ông ta đã khởi đầu bằng việc nghiên cứu về Rimbaud và Lautréamont. Đó là một người từng học lớp dự bị, học sinh của Jean Beaufret người đưa Heidegger vào Pháp. Đó là một thầy giáo từng qua lớp dự bị, hiện tượng duy nhất trên thế giới. Và khi đọc Faurisson, thì ta thấy đó hoàn toàn không phải cái gì đó giống như những người theo chủ nghĩa chối bỏ khác. Trước hết, nó điên rồ hơn và, sau đó, cái đó chạm tới tiếng Pháp, bởi nó khởi đầu bằng việc đặt lại vấn đề về Rimbaud và Lautréamont. Ở Pháp, những điều tồi tệ nhất và những điều tốt đẹp nhất luôn luôn vận hành quanh ngôn ngữ và văn chương. Pháp là đất nước duy nhất trên thế giới coi mình sở hữu một ngôn ngữ phổ quát, đất nước có được một Viện Hàn lâm Pháp, hết sức kiêu hãnh về ngôn ngữ của mình, coi tiếng Pháp như một định chế. Cách mạng đã tạo lập tiếng Pháp như là ngôn ngữ quốc gia, tức là mọi người phải nói thật giỏi. Toàn bộ điều này có lẽ ngày nay đang tan rã, nhưng tôi không chắc chắn là việc đó sẽ diễn ra một cách dễ dàng.

(trích từ Vincent Kaufmann, La Faute à Mallarmé. L’aventure de la théorie littéraire [Lỗi của Mallarmé. Cuộc phiêu lưu của lý thuyết văn học], Seuil, 2011, tr. 290-296)